15 đoạn văn Nghị luận văn học lớp 9 tiêu biểu Tài liệu ôn thi vào lớp 10
TOP 15 Đoạn văn Nghị luận văn học lớp 9 tiêu biểu, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới để viết đoạn văn nghị luận văn học thật tốt, ôn thi vào lớp 10 năm 2025 - 2026 hiệu quả.
Nhờ đó, các em sẽ nắm được cách viết, cách diễn đạt cho hiệu quả. Bên cạnh đó, các em có thể tham khảo thêm cách chuyển ý, cách mở bài nghị luận văn học. Vậy mời các em cùng tham khảo 15 Đoạn văn nghị luận về các khổ thơ, đoạn thơ trong bài Tiếng đàn mưa, Viếng lăng Bác, Đoàn thuyền đánh cá, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Bếp lửa... trong bài viết dưới đây.
15 đoạn văn Nghị luận văn học lớp 9 tiêu biểu
- Đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng đàn mưa
- Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài Sang thu
- Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài thơ Nói với con
- Đoạn văn cảm nhận khổ 1 Viếng lăng Bác
- Cảm nhận khổ 2 bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
- Đoạn văn cảm nhận khổ 3 Viếng lăng Bác
- Đoạn văn cảm nhận khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác”
- Đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
- Đoạn văn cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong Đoàn thuyền đánh cá
- Đoạn văn phân tích sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong Đoàn thuyền đánh cá
- Đoạn văn cảm nhận về khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá
- Đoạn văn cảm nhận khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Đoạn văn cảm nhận 2 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Đoạn văn cảm nhận về khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Đoạn văn làm sáng rõ chủ đề: “Bà là người nhóm lửa, truyền lửa và giữ lửa”
Đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng đàn mưa
“Tiếng đàn mưa” của Bích Khê đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng người đọc, điển hình là cảm xúc của nhân vật “khách tha hương”. Mưa rơi xuống lầu, lại rơi xuống thềm hoa lan xinh đẹp. Mưa rơi từ những cánh đồng tới những núi non suối thác. Một khung cảnh chỉ toàn những giọt nước mưa rửa trôi những thứ cũ để mang đến những cái mới lạ. “Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi” đâu đó ta nghe thấy tiếng của nỗi lòng đầy tâm sự. Tiếng đàn có thể cất lên trong tiếng mưa chút buồn gợi lên cái tâm tư riêng khó đoán của người khách. Đến khổ tiếp theo, tác giả miêu tả một cách tinh tế vẻ đẹp thiên nhiên sau cơn mưa, đồng thời cũng thể hiện được chính tâm trạng, yêu mến thiên nhiên đất nước của người khách. Cuối cùng, đứng trước bản ngân nga trong tiếng mưa, người “khách tha hương” đã bộc lộ hết ra ngoài, nước mắt tuôn rơi, như đang tuôn chảy vào từng lớp cảm xúc và tâm hồn. Tóm lại, bài thơ đã thực sự thành công khi nói về nỗi nhớ sự cô đơn mà không hề nặng nề về cảm xúc mà cứ nhẹ rơi như những giọt mưa mang âm thanh của tiếng đàn.
Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài Sang thu
Nếu khổ thơ đầu bài "Sang thu" thể hiện tín hiệu thu sang, thì tới khổ thơ thứ hai hình ảnh, sự vật, không gian được mở rộng và có chiều sâu hơn thông qua cảm nhận và quan sát tinh tế của Hữu Thỉnh. Hình ảnh dòng sông “dềnh dàng” tiếp nối chuỗi hình ảnh mơ hồ sương khói ở khổ một nhưng lại mang cảm giác thư thái, thảnh thơi của con sông sau những ngày bận rộn chảy trôi trong mùa mưa lũ. Sự dềnh dàng phải chăng cũng chính là con người trước khoảnh khắc giao mùa muốn lắng mình lại, để suy tư về cuộc đời và để lại dấu ấn đẹp cho cuộc sống. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh “chim bắt đầu vội vã”. Những cánh chim, tiếng hót líu lo vui nhộn của mùa hè giờ đây dường như bận rộn hơn, để tìm nơi ấm áp tránh cái lạnh của mùa mới. Nhưng kết tinh đẹp nhất là hai câu thơ: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Sức gợi của câu thơ là vô hạn khi gợi lên trong lòng người đọc về hình ảnh chiếc cầu giao mùa mỏng manh như đẹp và nên thơ. Ranh giới vô hình trong khoảnh khắc giao mùa tác giả bắt trọn vẹn khoảnh khắc đó để rồi cô kết trong câu thơ mềm mại, uyển chuyển như chính hình ảnh mà tác giả vẽ lên trong bài.
Đoạn văn cảm nhận khổ 2 bài thơ Nói với con
Nhà thơ Y Phương đã thể hiện những truyền thống của quê hương cùng tình cảm gia đình ấm áp thông qua tác phẩm Nói với con. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ cho ta thấy được phẩm chất cao đẹp, đáng quý của những người đồng mình cũng như lời dặn dò tha thiết của một người cha dành cho đứa con của mình. Mở đầu đoạn thơ ta có thể thấy được ngay phẩm chất đầu tiên của người đồng mình, đó là ý chí, là nghị lực vươn lên của những người đồng mình. Tác giả đã dùng hai tính từ "cao, xa" để diễn tả, so sánh ý chí của những người đồng mình. Dẫu có khó khăn, họ vẫn nỗ lực "nuôi chí lớn" để đi lên. Phẩm chất thứ hai của người đồng mình là lối sống thuỷ chung ân nghĩa với quê hương. Hai từ "sống" và "không chê" đã khẳng định mạnh mẽ quyết tâm gắn bó với quê hương của những người đồng mình, dù cho quê hương còn "nghèo khó", "gập ghềnh", họ cũng không rời bỏ. Phẩm chất đáng quý tiếp theo của những người đồng mình là tinh thần tự lập tự cường. Người dân quê mình tuy "thô sơ da thịt" thế nhưng ai ai cũng đều là những người anh hùng kiên cường, bất khuất, chẳng hề "nhỏ bé". Hơn thế, họ còn mang trong mình quyết tâm dựng xây quê hương giàu mạnh. Hình ảnh ẩn dụ "người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương" đã chứng minh cho tinh thần tự lập tự cường ấy của họ. Khi đứa con đến tuổi trưởng thành, muốn ra đi để làm nên một trang mới của cuộc đời, người cha đã dặn dò đứa con rằng: "Con ơi tuy thô sơ da thịt.../Không bao giờ nhỏ bé được". Đó là lời nhắn gửi tha thiết, yêu thương mà cha dành tới cho con. Dù có đi đâu, làm gì, cha cũng muốn đứa con của mình luôn ghi nhớ quê hương với những phẩm chất anh hùng của người đồng mình. Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc, những biện pháp tu từ so sánh, ẩu dụ, điệp ngữ và thể thơ tự do khoáng đạt, trong khổ thơ thứ hai của bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương đã làm nổi bật nên phẩm chất người đồng mình cùng lời dặn dò tha thiết của người cha dành cho con.
Đoạn văn cảm nhận khổ 1 Viếng lăng Bác
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật hay dòng cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác. Cách vào đề thật gần gũi giản dị, nhà thơ đã khéo léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi ra viếng Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Tiếng “con” mở đầu bài thơ cất lên thật gần gũi, thân thương. Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ, của đồng bào miền Nam đối với Bác, cách xưng hô ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân. Nhà thơ dùng từ thăm thay cho từ viếng như cố ý muốn quên đi cảm giác tiếc thương, đau buồn và hình dung Bác như còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Ấn tượng đậm nét đầu tiên của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác là hình ảnh hàng tre: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi ! hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát – hình ảnh thực chỉ hàng tre thân thuộc chốn làng quê Việt Nam khiến lăng Bác vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi. Câu cảm thán Ôi! đã biểu hiện xúc động pha lẫn niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Hình ảnh hàng tre còn mang nét nghĩa ẩn dụ chỉ phẩm chất cốt cách con người Việt Nam, đó là sức sống kiên cường bền bỉ, rời rợi sắc xanh như cây tre luôn tươi tốt giữa đất đai khô cằn sỏi đá. Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã khắc họa vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong muôn vàn khó khăn, thử thách. Tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất. Dấu hiệu hàng tre đầu tiên ở nơi Bác cũng là dấu hiệu của dân tộc Việt Nam, bởi Bác cũng chính là biểu hiện Việt Nam, tiêu biểu cho con người Việt Nam hơn bao giờ hết. Hàng tre xanh ấy được trồng xung quanh lăng Bác như muốn thay cả dân tộc Việt Nam canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Tình cảm của nhà thơ và của đồng bào miền Nam khi về với Bác thật chân thành, xúc động biết bao!
Cảm nhận khổ 2 bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Đoạn thơ đã thể hiện nỗi xúc động thiêng liêng xen lẫn niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Hai câu thơ đầu tiên với hình ảnh mặt trời thực và ẩn dụ sóng đôi với nhau đã thể hiện thật hay những suy ngẫm, cảm xúc của Viễn Phương với Bác. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng và “Một mặt trời trong lăng rất đỏ“- hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ vĩ đại. Nếu như vầng mặt trời kì vĩ ở trên cao là cội nguồn của ánh sáng, sự sống trên trái đất thì Bác chính là mặt trời của dân tộc, là người đem đến ánh sáng, niềm vui, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hình ảnh mặt trời thiên nhiên được nhân hóa qua từ đi và thấy đang ngày ngày chiêm ngưỡng vầng mặt trời trong lăng với niềm ngưỡng mộ và thán phục đã khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của Bác trong lòng dân tộc. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” không chỉ gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn mà còn gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác, người cha già kính yêu của dân tộc. Hòa nhập vào “dòng người” đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi, thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một “tràng hoa” muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất về đây thăm Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” rất đẹp, nó như muốn nói mỗi người dân Việt Nam như một đóa hoa đang nở rực rỡ dưới ánh mặt trời của Bác đã về đây kính dâng lên Người những gì tinh túy nhất của cuộc đời, lời thơ diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Chữ “dâng” chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói “bảy chín tuổi” mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, cách nói ẩn dụ gợi ý nghĩa cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, Bác đã đem về mùa xuân cho đất nước, cho cuộc đời. Lời thơ chân thành, giản dị đã bộc bạch bao tình cảm yêu mến, nhớ thương của viễn Phương và cũng là của nhân dân miền Nam với Bác.
Đoạn văn cảm nhận khổ 3 Viếng lăng Bác
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ thơ thứ ba đã diễn tả cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài của Bác. Bao tình cảm dồn nén bấy lâu nay gặp bóng hình thân thương bỗng trào lên thổn thức: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên / Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” . Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng khiến tác giả hình dung đó là ánh trăng của đất trời vốn là tri kỉ tri âm của Bác. Bác như đang nằm ngủ một giấc ngủ “bình yên“, trong một khung cảnh thơ mộng, Bác chỉ tạm nghỉ ngơi sau một hành trình dài vất vả, gian nan. Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau lại để khẳng định rằng Bác vẫn còn sống mãi. Bác vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác vào trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền bao bọc giấc ngủ của Bác đã gợi cho ta cảm nhận về vẻ đẹp thanh cao, giản dị của Bác, một tâm hồn luôn yêu và gắn bó với thiên nhiên. Nhìn “Bác ngủ “, nhà thơ đau đớn, xúc động “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi / Mà sao nghe nhói ở trong tim? ” . Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác như còn sống mãi nhưng lí trí thì lại phải tỉnh táo để nhận thức rằng Bác đã đi xa. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” như muốn nói Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non sông thế nhưng nỗi đau vẫn không dừng lại. Cụm từ “nghe nhói” đã diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi hình dung nỗi đau không chỉ cảm được mà còn nghe thấy được, nỗi đau như giằng xé, day dứt khôn nguôi. Lời thơ tựa như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con xa về muộn bên di hài người cha kính mến.
Đoạn văn cảm nhận khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác”
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khổ thơ cuối nói lên niềm lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ khi phải trở về miền Nam. Đến giờ phút chia tay, sắp phải chia xa người cha già kính mến, trong lòng nhà thơ trào dâng bao nỗi niềm xúc động. Lòng thương nhớ bấy lâu đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. “Mai về miền Nam” – đang ở giây phút hiện tại, nghĩ về lúc phải chia xa, bao nỗi nhớ niềm thương lại dâng lên tràn đầy, không thể nào kìm nén. Câu thơ giống như một lời giã biệt, cụm từ “thương trào nước mắt” cho ta thấy nỗi xúc động mãnh liệt của nhà thơ, nước mắt ấy là giọt nước mắt của nhớ thương, của khao khát được ở lại mãi bên Người, giọt nước mắt nhớ thương của người con về thăm cha muộn màng nhưng sâu nặng biết bao. Dù có lưu luyến, có bịn rịn, không muốn rời xa Bác thì cũng đến lúc phải trở về miền Nam, nhà thơ chỉ có thể gửi lòng mình ở lại bằng cách hóa thân vào cảnh vật bên lăng Bác. Nhà thơ muốn hóa thân làm “con chim hót” để cất tiếng hót đem lại chút tươi vui rộn rã cho Người, muốn làm “đóa hoa” tỏa hương sắc nơi Người yên nghỉ và đặc biệt, muốn làm “cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bên lăng, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ muốn làm và các hình ảnh liệt kê đã tạo nên nhịp điệu thơ dồn dập, diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ cũng như của toàn thể dân tộc Việt Nam với Bác. Một lần nữa hình ảnh cây tre lại xuất hiện tạo kết cấu đầu cuối tương ứng mang đến một ý thơ mới mẻ: cây tre trung hiếu là hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung của dân tộc Việt Nam suốt đời đi theo lí tưởng của Người. Kết thúc bài thơ là sự xa cách về không gian địa lí nhưng lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, bài thơ từ đây kết thúc nhưng tâm sự nhà thơ lại vút cao, một nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, những nỗi niềm tự nguyện về cuộc đời mình để xứng đáng với Con Người khiêm nhường và vĩ đại. Đó cũng chính là nỗi niềm của muôn triệu con tim Việt Nam với Bác.
Đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao động mới hăng say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi khép lại một ngày với “mặt trời xuống biển”, “sóng cài then, đêm sập cửa” thì con người lại bắt đầu công việc của mình – ra khơi đánh cá. Đó là một công việc thường nhật, đã trở thành nếp sinh hoạt của người dân chài. Trên con thuyền ra khơi, họ mang theo âm hưởng tiếng hát hào hùng và sôi nổi“Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, tiếng hát như có sức mạnh thổi căng cánh buồm đẩy con thuyền chạy nhanh ra khơi, hình ảnh ẩn dụ thật đẹp đã nói lên niềm vui và sự hăng say đối với công việc lao động của những người dân chài. Giữa bao la trời nước, con người hiện lên với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn trong tư thế làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương, đất nước: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm, và giữa khoảng không bao la của vũ trụ vô tận ấy, trên thì có “mây cao”, dưới thì có “biển bằng”, cả đoàn thuyền “lướt” ra tận khơi xa để mà dò bụng biển tìm luồng cá, để mà bủa lưới vây giăng. Vẫn là vũ trụ vô cùng vô tận, nhưng con người không còn cảm giác bé nhỏ mà ngược lại, họ đã tự nâng mình lên ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ trong tư thế của người chiến thắng. Hình ảnh người dân chài không được trực tiếp miêu tả nhiều trong bài thơ, họ chỉ được đặc tả ở một hình ảnh duy nhất, trong dáng vẻ người lao động : “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Chỉ một hình ảnh đó thôi cũng giúp ta hình dung được vẻ đẹp cường tráng, khỏe mạnh, ăn sóng nói gió của người dân chài. Trong suốt hành trình của cuộc ra khơi, tiếng hát phấn chấn, tràn đầy lạc quan vẫn không ngừng vang lên, hát lúc ra khơi, trong lao động và cả khi thắng lợi trở về, câu hát ngân nga, khỏe khoắn trở thành hình ảnh ẩn dụ cho khí thế hứng khởi và niềm lạc quan, yêu đời của người lao động, tiếng hát ấy làm cho công việc lao động nặng nhọc trở nên nhẹ nhàng và đầy chất thơ. Sau một đêm lao động vất vả, họ vẫn giữ được khí thế náo nức, hăng say: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Một hình ảnh thơ đẹp và đầy sức gợi, “chạy đua cùng mặt trời” cũng có nghĩa là họ đang tiếp tục đua cùng với thiên nhiên, cùng thời gian để làm giàu cho Tổ quốc. Hình ảnh người dân chài hiện lên thật đẹp, họ là đại diện cho vẻ đẹp người lao động thời đại mới trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời, bài thơ là bài hùng ca về người lao động.
Đoạn văn cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong Đoàn thuyền đánh cá
“Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ khắc họa thành công hình tượng con người lao động mà còn vẽ lên bức tranh sơn mài vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa lung linh, huyền ảo và rực rỡ, tươi sáng của biển Hạ Long. Mở đầu bài thơ là một hình ảnh đẹp, kì vĩ, tráng lệ về cảnh biển Hạ Long khi hoàng hôn vừa buông xuống:“Mặt trời xuống biển như hòn lửa – Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Phép so sánh “mặt trời” như “hòn lửa” đã gợi bao liên tưởng thú vị cho người đọc, sắc đỏ rực như lửa cháy của mặt trời hòa hợp với sắc xanh của biển tạo nên gam màu thật rực rỡ cho bức tranh sơn mài, mở ra một khung cảnh huy hoàng và tráng lệ. Nhà thơ khéo léo vận dụng nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “cài”, “sập” để biến những con sóng trở thành chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa để khép lại ngôi nhà vũ trụ, nhờ thế, biển vốn là thách thức và bí ẩn với con người giờ đây đã trở nên vô cùng thân quen và gần gũi. Dưới đêm trăng, biển lại hiện lên thật lung linh và huyền ảo, thiên nhiên biển khơi là những đêm trăng đẹp: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”, câu thơ đầy ắp những hình ảnh của thiên nhiên, đó là một không gian biển khơi mênh mông, khoáng đạt, có gió lồng lộng thổi, có ánh sáng vằng vặc của vầng trăng, từng đám mây trôi nhè nhẹ trên tầng không, có mặt biển biếc xanh sâu thẳm. Vẻ đẹp của biển được tô điểm thêm bởi sắc màu của các loài cá quý chốn biển khơi: chim, thu, nhụ, đé, song. Hình ảnh ẩn dụ “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” và hình ảnh nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thể hiện cái nhìn tinh tế và giàu liên tưởng của tác giả khiến biển đêm hiện lên như một bức tranh rực rỡ với những mảng màu lung linh đậm sắc. Đêm trên biển được tác giả miêu tả thật đặc biệt “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, màn đêm giống như một sinh thể khổng lồ, tiếng thở của đêm là tiếng thì thào của sóng – một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao in dưới mặt nước nhưng dưới cái nhìn của nhà thơ thì đó là sao đang lùa sóng nước Hạ Long. Đây quả là một hình ảnh lạ, một sự sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận làm cho cảnh biển đêm thật sinh động. Bình minh lên, vẻ đẹp của biển khơi lại được khắc họa trong ánh mặt trời, trong sắc màu lộng lẫy của cá – nhưng là cá trong khoang thuyền với “Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông” không phải cá dưới biển khơi. Hình ảnh “mặt trời đội biển” nhô lên trên sóng nước xanh lam thật đẹp, hùng vĩ và tráng lệ, dưới ánh sáng của vầng thái dương, mắt cá tựa như triệu triệu mặt trời nhỏ li ti, lấp lánh; thành quả lao động thêm rực rỡ, huy hoàng. Bằng bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực, nhà thơ đã khắc hoạ thành công bức tranh về thiên nhiên nơi biển cả,những hình ảnh thiên nhiên hiện ra vừa bình dị vừa đẹp tươi thơ mộng,chắc chắn phải có một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên tha thiết, Huy Cận mới sáng tạo nên những vần thơ tuyệt bút như vậy.
Đoạn văn phân tích sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã thể hiện thật hay sự gắn kết hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong thời đại mới. Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, biển Hạ Long hiện lên thật rực rỡ, huy hoàng và tráng lệ: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa – Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Cảm hứng vũ trụ quen thuộc cùa thơ Huy Cận với những so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị: mặt trời như một hòn lửa đỏ rực khổng lồ, những lượn sóng dài như những then cài, đêm tối bao trùm trời đất như hai cánh cửa vĩ đại đang sập lại đã biến vũ trụ thiên nhiên như một ngôi nhà vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho con người. Từ đó, tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc đánh cá không ít khó khăn vất vá. Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của những con người yêu nghề, yêu biển. Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trên biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ và ngang tầm vũ trụ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng”, một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm, gợi lên sự nhịp nhàng, hòa quyện của đoàn thuyền với biển trời. Tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ, hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới niềm vui. Nhưng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền mà đây là một cuộc chiến đấu thực sự, “dàn đan thế trận” để giành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. Màu cá trong đêm trăng dưới nước “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, sắc cá dưới khoang thuyền dưới ánh mặt trời “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” đã tạo cho bức tranh thiên nhiên những nét vẽ đẹp, những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ngợi ca những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ Long được miêu tả trong sự thống nhất hòa quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ và bay bổng. Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ hòa hợp với cảm hứng lao động đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Đoạn văn cảm nhận về khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoạn trích trên được trích trong văn bản “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận – một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, đoạn thơ đã rất thành công trong trong việc thể hiện hình ảnh con thuyền ra khơi. Hình ảnh con thuyền ra khơi được miêu tả trong một hình ảnh thơ thật đẹp, thật lãng mạn: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng; Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Con thuyền không chạy bằng sức mạnh của con người” phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang” như thơ Tế Hanh mà hoàn toàn do thiên nhiên trợ giúp. Hình ảnh ẩn dụ, cách nói phóng đại “lái gió, buồm trăng”, nhà thơ tưởng tượng gió là bánh lái, trăng là buồm, gió lái thuyền đi, thuyền đầy trăng sáng. Động từ “lướt” diễn tả tốc độ nhẹ nhàng thênh thang của đoàn thuyền giữa làn mây cao với mặt biển hiền hòa. Ta tưởng như cả đoàn thuyền trở thành mạch nối liền với thiên nhiên. Cả thiên nhiên là gió, trăng, mây, biển quay xung quanh con thuyền, đoàn thuyền là trung tâm, là linh hồn của đêm biển Hạ Long. Hệ thống các động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn” cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời. Huy Cận đã phóng đại con người, lớn ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ và trong tư thế làm chủ thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh con thuyền chính là hình ảnh những người lao động. Chỉ vài nét chấm phá, Huy Cận // đã biến con người trở thành những nhà thám hiểm đại dương, những con thuyền của họ // ra khơi không phải đi đánh cá mà là để dò bụng biển(câu ghép). Trước con người lao động, biển khơi mênh mông là thế nhưng cũng hẹp lòng lại để con người chủ động thăm dò, khám phá. Sau khi thăm dò luồng cá, họ bắt đầu bước vào công việc lao động cũng bề thế như bước vào trận chiến “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Với Huy Cận, dường như lao động cũng là một mặt trận, mà ở đó mỗi người ngư dân là một chiến sĩ, ngư cụ là vũ khí. Tóm lại, hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận miêu tả cụ thể và rất sinh động khi đánh cá trên biển.
Đoạn văn cảm nhận khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn với ý chí quyết tâm giải phóng Miền Nam đã được thể hiện thật hay trong khổ thơ cuối khép lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Hình ảnh chiếc xe bị bom đạn Mĩ phá đến biến dạng một lần nữa xuất hiện góp phần khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm: Không có kính rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. Chiến tranh càng ngày càng ác liệt, những chiếc xe “từ trong bom rơi” cũng ngày càng trơ trụi. Điệp ngữ không có được nhắc lại ba lần kết hợp với các hình ảnh liệt kê kính, đèn, mui xe, thùng xe như làm tăng thêm sự biến dạng của những chiếc xe, làm tăng thêm sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh. Nó vừa là một từ phủ định nhưng lại mang tính khẳng định cho những nguy hiểm cao độ với tính mạng của những người lính lái xe và ranh giới giữa sự sống – cái chết lại càng trở nên mong manh. Thế nhưng, “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”, câu thơ đã phần nào lột tả ý chí chiến đấu vì miền Nam của những người lính lái xe đẩy can đảm. Phó từ “vẫn” chỉ sự tiếp diễn thể hiện ý chí quyết tâm phi thường của người lính, dù phải chịu bao nguy hiểm, khó khăn, họ cũng không lùi bước. Câu thơ cuối đã lí giải vì sao chiếc xe ngày càng hỏng hóc biến dạng mà vẫn có thể tiếp tục chạy, ấy là vì : “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Giữa muôn vàn cái khó khăn, thiếu thốn, cái “không có” của những chiếc xe là một cái “có” đầy ý nghĩa, cái “có” đó là trái tim rực lửa, sẵn sàng hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của những người lính. Trái tim vừa là hình ảnh hoán dụ để chỉ người lính, vừa là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cho những lí tưởng cao đẹp, sống cống hiến hết mình vì nhiệm vụ cao cả với non sông, đất nước của các anh. Hình ảnh trái tim kết hợp với từ “chỉ”, “một ” như nhấn mạnh trái tim yêu nước chính là điều quan trọng nhất để người lính hướng về miền Nam phía trước. Ngôn ngữ thơ bình dị, tự nhiên, giọng điệu thơ dí dỏm, ngang tàng đã thể hiện thật hay vẻ đẹp của người lính trên chuyến xe lao ra mặt ra mặt trận, họ mang trong mình truyền thống yêu nước của dân tộc thật đáng yêu quý và cảm phục biết bao!
Đoạn văn cảm nhận 2 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Đoạn thơ trên trích trong văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969, đã rất thành công trong việc thể hiện tư thế của người lính lái xe Trường Sơn: ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận. Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính. “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ. Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn thoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính. Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua. Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên. Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và những cánh sao đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái. Điệp từ, điệp ngữ “nhìn thấy … nhìn thấy … thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”: Gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Đặc biệt, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái. Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết, và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
Đoạn văn cảm nhận về khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Hai khổ thơ trên được trích trong văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969 đã rất thành công trong việc thể hiện tinh thần bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của những người lính lái xe. Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù. Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường. Cấu trúc lặp: “không có …, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “chưa có …” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính lái xe Trường Sơn. Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường những hiểm nguy, thử thách. Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh … làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Phải chăng tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước gian khổ mà oai hùng?
Đoạn văn làm sáng rõ chủ đề: “Bà là người nhóm lửa, truyền lửa và giữ lửa”
Bà là người nhóm lửa, truyền lửa và giữ lửa. “Lửa” ở đây có lẽ không còn là ngọn lửa thực bập bùng ẩn hiện khi sớm khi chiều mà đã mang nét nghĩa biểu tượng: lửa của tình yêu thương, của niềm tin, hi vọng,….Bà là người nhóm lửa bởi bà là người đã nhóm lên ngọn lửa về tuổi thơ đẹp đẽ nhất của cháu. Tuổi thơ của cháu dù trải qua những nhọc nhằn, vất vả nhưng luôn hạnh phúc vì cháu được sống trong tình yêu thương của bà, trong sự đùm bọc, sẻ chia tình làng nghĩa xóm. Bên bếp lửa hồng ấm áp của bà, cháu được nghe bà kể những chuyện đời xưa, đời nay, được bà bảo, bà dạy, bà chăm tận tình , ấm áp. Bên bếp lửa ấy, cháu cảm nhận thấm thía tình yêu thương của bà qua “khoai sắn ngọt bùi”, cảm được tình cảm xóm giềng thắm thiết qua “nồi xôi gạo mới xẻ chung vui” và hơn hết, bà đã nhóm lên những “tâm tình tuổi nhỏ” trong cháu, những kí ức tuyệt vời có sức nâng đỡ và tỏa sáng tâm hồn cháu trong mỗi hành trình dài rộng của cuộc đời. Bà không chỉ nhóm lửa mà còn giữ lửa. Ngọn lửa của tình yêu thương, của niềm tin chưa bao giờ bị dập tắt trong lòng bà dù cuộc sống có cực khổ, cơ hàn đến bao nhiêu chăng nữa. Thời gian chảy trôi, những năm tháng đói nghèo quay quắt cũng qua đi, cháu đã lớn khôn nhưng “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”, vẫn cần cù với công việc thầm lặng. Ngọn lửa của tình yêu thương, của niềm tin vào ngày mai tươi sáng vẫn luôn ấp ủ trong lòng bà. Trong hoàn cảnh đất nước đau thương, cơ hàn, giặc dã, ngọn lửa ấy luôn tỏa sáng trong lòng bà để biến thành nghị lực phi thường vượt qua mọi khó khăn, nó tựa như ánh sáng cuối đường hầm để người ta có niềm tin bước tới, chiến thắng sự khốc liệt của thực tại. Bà nhóm lửa, giữ lửa và bà còn truyền ngọn lửa rực cháy ấy cho cháu. Ngọn lửa tình yêu thương của bà giúp cho cháu biết sống yêu thương, thủy chung và tình nghĩa; ngọn lửa niềm tin trong lòng bà đã truyền cho cháu tinh thần lạc quan và ước mơ tươi sáng của ngày mai, giúp cháu vượt qua được khó khăn, khốc liệt ở thực tại. Nhờ có ngọn lửa yêu thương và niềm tin bà đã truyền cho cháu, cháu có thêm nghị lực, thêm ý chí để thực hiện những ước mơ, đủ tự tin để vươn tới những chân trời cao rộng. Bà gửi vào tâm hồn cháu những kí ức đẹp của tuổi thơ , để rồi khi đi xa, đến mọi phương trời xa lạ, cháu vẫn nhớ những hình ảnh thân thương về bà và bếp lửa nồng ấm. Bà chính là hiện thân của tình yêu thương, của đức hi sinh, của bản lĩnh và nghị lực mạnh mẽ, những tình cảm nồng ấm bên bà chính là gói hành trang tinh thần để cháu sải bước trên đường đời rộng mở.