Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ văn 10 sách Cánh diều Ôn tập Ngữ văn lớp 10 học kì 2 (Cấu trúc mới)
Đề cương ôn tập cuối học kì 2 Ngữ văn 10 Cánh diều năm 2025 là tài liệu vô cùng hữu ích gồm 6 trang tóm tắt kiến thức trọng tâm trong chương trình học kì 2 kèm theo 2 đề minh họa.
Đề cương ôn tập học kì 2 Ngữ văn 10 Cánh diều năm 2025 được biên soạn theo cấu trúc mới gồm 4 điểm đọc hiểu + 6 điểm tập làm văn. Qua đó giúp các bạn làm quen với các dạng bài tập, nâng cao kỹ năng làm bài và rút kinh nghiệm cho bài thi cuối học kì 2 lớp 10. Từ đó có định hướng, phương pháp học tập để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra. Vậy sau đây là trọn bộ đề cương học kì 2 Ngữ văn 10 Cánh diều năm 2025 mời các bạn theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm: đề cương ôn tập học kì 2 Toán 10 Cánh diều, đề cương ôn tập học kì 2 Vật lí 10 Cánh diều.
Đề cương ôn thi cuối học kì 2 Văn 10 Cánh diều năm 2025
TRƯỜNG THPT ……….. BỘ MÔN: NGỮ VĂN | ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ II NĂM HỌC 2024 – 2025 MÔN: NGỮ VĂN - KHỐI 10 |
I. Kiến thức cơ bản cần nắm
Bài 7: Thơ tự do | Bài 8: Văn nghị luận |
ĐỌC | |
- Thơ tự do không có thể thức nhất định, không bị ràng buộc về số dòng, số chữ, vần… có phân dòng; gắn liền với nhu cầu giải phóng cảm xúc khỏi sự ràng buộc chặt chẽ của các quy tắc về hình thức, phản ánh được những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể hiện cái nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ - Nhân vật trữ tình là người trực tiếp bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ… trong bài thơ - Hình ảnh hiện lên qua việc tác giả sử dụng các từ ngữ và các biện pháp tu từ gợi cho người đọc cảm nhận về bức tranh đời sống thông qua các giác quan; giúp nhà thơ truyền tải cảm xúc, tư tưởng mạnh mẽ… - Cảm hứng chủ đạo là trạng thái cảm xúc, tình cảm mãnh liệt, xuyên suốt tác phẩm, gắn với một tư tưởng, một cách đánh giá của tác giả. | - Luận đề: quan điểm bao trùm toàn bộ bài viết, thường được nêu ở nhan đề hoặc trong phần mở đầu của bài viết - Luận điểm nhằm triển khai làm rõ cho luận đề - Cách sắp xếp, trình bày các yếu tố trên thể hiện bố cục và trình tự, thứ bậc của hệ thống ý trong bài nghị luận, giúp cho bài viết rõ ràng, mạch lạc |
THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT | |
Phân tích được giá trị của một số biện pháp tu từ đã học. | Nhận biết, phân tích và sửa lỗi về tính mạch lạc, tính liên kết của đoạn văn và văn bản. |
VIẾT | |
Viết được văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một khía cạnh của tác phẩm thơ. | Viết được văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện hoặc một đoạn trích trong truyện. |
NÓI VÀ NGHE | |
Biết giới thiệu, đánh giá một tác phẩm thơ. | Biết giới thiệu, đánh giá, thuyết trình về vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. |
B. Cấu trúc đề thi học kì 2 Ngữ văn 10
I. Đọc hiểu (4.0 điểm)
- Hình thức: trả lời câu hỏi ngắn
- Nội dung:
+ Văn bản thuộc thể loại văn bản truyện, thơ tự do,…
+ Kiến thức đọc hiểu văn bản: phương thức biểu đạt, biện pháp tu từ, nhan đề, ý nghĩa hình ảnh, chi tiết…
II. Viết (6.0 điểm)
- Hình thức tự luận.
- Nội dung:
+ Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ tự do (phân tích, đánh giá các yếu tố nội dung như đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng… các yếu tố nghệ thuật: thể loại, nhân vật trữ tình, hình ảnh, từ ngữ, bút pháp nghệ thuật…)
+ Viết bài văn nghị luận văn học phân tích, đánh giá về một tác phẩm truyện ngắn hoặc đoạn trích trong tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết (nhân vật, tình huống, chi tiết đặc sắc…)
C. Đề thi minh họa
A. ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
(Truyện ngắn Ga xép kể về cuộc đời ông Lãng. Ông sống trong một ngôi nhà có từ đời ông nội, chứng kiến sự mất tích bí ẩn của cha, sự chờ đợi mỏi mòn của mẹ, hành động hi sinh của em trai. 16 tuổi ông đi lính, rồi trở thành một nhà báo, cuối đời lại quay về sống trong ngôi nhà cũ với ám ảnh về linh hồn người cha và kí ức về mẹ. Ông Lãng có hai đứa con gái học giỏi, ngoan ngoãn, nhưng chúng khiến ông vô vọng vì đều lấy chồng ngoại quốc và theo chồng xa xứ. Mải chạy theo tình yêu, chúng đã không cảm nhận được nỗi cô đơn của cha khi phá cái nhà cũ, xây cho ông “một ngôi nhà sặc sỡ kiểu kì quặc” và “rải tiền lo cho ông”…) […] Ông đã đi quá nhiều. Có lẽ lỗi do ông đi nhiều. Ông đã dựa vào người em ruột, liệt
sĩ thời chống Pháp để lí lịch của ông qua được cái cửa khẩu khó nhất để hành nghề, để đi. Bao nhiêu những bâng khuâng ở phương trời xa lạ. Một lần, ở hành lang khách sạn gần vùng Si-bê-ri, một thiếu nữ làm quen với ông. Khi chia tay, nàng ghi cho ông cái địa chỉ bằng tiếng
Nga quê nàng ở thượng nguồn sông Amua, phần chảy qua nước Nga vĩ đại. Cho đến bây giờ ông vẫn cảm thấy chống chếnh khi nghĩ tới cái làng nào đấy ở bên sông Amua. Làm sao ông có thể đến được con sông ấy. Nó ở đâu, cái làng như hạt bụi trên vùng đất bao la? Sau chiến tranh, ông đi khắp nơi. Tận một hòn đảo xa tít ngoài Thái Bình Dương, ông cũng gặp người Việt. Trong một ngôi làng hẻo lánh gần rừng Amazôn, một người đàn ông đón xe của ông đi qua. Đôi mày lưỡi mác đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, đôi mắt nhỏ xếch như hai sợi chỉ trên gò má cao đỏ bầm. Một người Việt Nam chính hiệu ra đi từ những năm năm mười. Giọt nước mắt của con người lưu lạc đó nhỏ vào bàn tay ông, khi ông nắm tay anh ta. Anh ta quên cả tiếng Việt rồi. Đằng sau anh ta là một người đàn bà da đỏ có hai gò má như tạc bằng đất sét. Ông thương những con người đơn lẻ phải thích nghi với xứ người. Nhưng một lần tới New York, vô tình ông rẽ ngoặt sang phía khác khi thấy người Việt đi tới. Ông lúng túng không muốn đối thoại. Cái quả bom của chiến tranh nhiều phía đã nổ tung đất nước ông. Những con người tung tóe khắp hành tinh, mang theo những hận thù, để lại nhiều nghi kị.
Bất hạnh thay một xứ sở trong đó người ta chẳng được ở yên một chỗ. Sinh con đẻ cái trong một mái nhà, già đi và chết trong mái nhà ấy, với những đồ vật “hai mươi năm vẫn chạy tốt”.
Ông nói với mấy đứa con cái ý nghĩ về mái nhà, về vùng đất. Hai đứa đều cười. Thượng đế sinh ra con người trên mặt đất. Cũng cây cỏ ấy, cũng mặt trời ấy. Ai muốn sống ở đâu thì sống. Tổ quốc là Trái đất này. Cha già rồi, cha nghĩ những điều cạn hẹp. Chúng con như cái áo phông cái quần bò. Ở đâu có người ở đó sống tốt. Lúc này cả trái đất đều mặc áo phông quần bò. Biên giới sẽ chẳng còn ý nghĩa gì đâu cha.
Ông lặng thinh. Chúng nó có lí của chúng nó. Nhưng chúng nó đặt ông vào trào lưu áo phông quần bò của chúng, chúng thực sự tàn nhẫn. Chúng đang giết ông khi chúng phá cái nhà cũ của ông, chúng xách va-li ra đi khi cái chết đang vỗ cánh trên đầu ông.
Ông ngủ lơ mơ trong cái giường đệm với những chồng gối cao xa lạ trong ngôi nhà mới. Một cái bóng sượt qua mặt ông, có thực, không phải cảm giác. Và một tiếng rên đau đớn, ông nghe rõ.
Ông ngồi bật dậy bất giác kêu lên: Cha ơi! Nhưng tất cả lại tĩnh lặng.*
Dạo hai đứa con mới đi theo tình yêu, ông ở lại ngôi nhà một tầng cũ đến nỗi khi mưa lâu mái ngói bốc lên mùi rêu ẩm ướt. Ông đi chơi với mấy người bạn già, ông về cái nhà rêu mốc ông an tâm, ngồi uống nước trà, đọc những cuốn sách đã cũ. Ông chờ đợi những đứa con trở về. Những con người đã chết, chủ nhân đích thực của ngôi nhà cũng thấy yên ổn khi ẩn nấp sau những bức bàn, sau cái tủ gỗ từ đầu thế kỉ. Ông ở trong ngôi nhà, đêm đêm cảm thấy có nhiều đôi mắt âu yếm dõi theo. Ông sống với những linh hồn, và chờ đợi…
Cái thời ông mặc chiếc quần sooc nhỏ xíu, cởi trần cùng thằng em trèo lên cây sấu trước cửa rung cành cho sấu chín rụng lộp bộp trên mái ngói, là thời người ta thấy có lí khi sinh ra đời. Cái thời thanh bình ấy chỉ là khoảnh khức. Ông không hề thấy đợi mình thanh bình. Lúc nào cũng có cái gì đó đập vào tai: tiếng còi hụ bảo máy bay, tiếng bom xé màng tai, tiếng kêu gọi tản cư, kêu gọi lên đường, kêu gọi tẩy chay ai đó, tuyên dương ai đó, tiếng loa báo những chuyến tàu chạy ở nhà ga, tiếng mẹ ông giục: nhanh nhanh lên các con! Đời của một người Việt đầy ắp những âm thanh hối hải. Cuộc sống như chuyến tàu chợ, hành lí nhặt nhạnh tạm bợ, mặt mũi bơ phờ. Chuyến tàu đôi khi dừng ở ga xép cho người ta xuống xả hơi tí chút. Trong cái ga xép ấy là một thoáng bình yên như không có thực. Người ta làm một mái nhà, trồng một vụ rau, cưới vợ cho con, có một đứa cháu, có một chút kỉ niệm… Rồi lại bỏ lại tất cả, lên một con tàu chạy không có chỗ đỗ dừng cố định. Nhưng lạ thay, ông thường xuyên quên hẳn tiếng rin rít của bánh xe nghiến trên đường sắt số mệnh. Sự bình yên ít ỏi ở những ga xép sống mãnh liệt hơn sự hãi hùng.
(Trích Ga xép, Lê Minh Khuê, Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam từ 1986 đến nay, Đoàn Ánh Dương tuyển chọn và giới thiệu, NXB Phụ nữ, 2013, tr.139 – 153)
Chú thích:
Lê Minh Khuê là một trong những nhà văn tiêu biểu của thời kì đổi mới. Truyện của bà thiên về cuộc sống đời thường, có khả năng bao quát và gợi ra nhiều suy ngẫm về nhân sinh, thế sự với nghệ thuật trần thuật đa dạng, sử dụng linh hoạt những điểm nhìn khác nhau…
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1: Chỉ ra 02 dấu hiệu của truyện ngắn hiện đại được thể hiện trong đoạn trích trên.
Câu 2: Anh/Chị hãy cho biết tên những “phương trời xa lạ” khiến nhân vật ông Lãng “bâng khuâng”.
Câu 3: Theo anh/ chị tại sao khi nghe quan điểm của các con về ngôi nhà và Tổ quốc, ông Lãng lại suy nghĩ: Chúng nó có lí của chúng nó. Nhưng chúng nó đặt ông vào trào lưu áo phông quần bò của chúng, chúng thực sự tàn nhẫn. Chúng đang giết ông khi chúng phá cái nhà cũ của ông, chúng xách va-li ra đi khi cái chết đang vỗ cánh trên đầu ông.
.............
Tải file về để xem thêm Đề cương ôn thi cuối học kì 2 Văn 10 Cánh diều
Chọn file cần tải:
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
