Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm gồm 2 bài mẫu cực hay. Qua đó các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất Nước góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phẩm văn hóa dân gian, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo bài thơ Đất Nước. Vậy sau đây là 2 bài văn mẫu hay nhất mời các bạn đón đọc. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm phân tích bài thơ Đất nước, phân tích 9 câu đầu Đất nước.
Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý chất liệu văn hóa dân gian trong bài Đất nước
1. Mở bài
- Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm Mặt đường khát vọng và đoạn thơ Đất Nước:
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương Đất nước của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người.
- Dẫn dắt nhận định: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ.
2. Thân bài
Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn)
- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam
- Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,...).
- Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.
- Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...
Ví dụ:
- "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"
- "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"
- "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."
...
+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"
Ví dụ: Truyền thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
- Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại"
3. Kết bài
- Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đoạn trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
- Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút.
- Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc.
Chất liệu văn hóa dân gian trong Đất nước - Mẫu 1
Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ tài năng thời chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Đọc các bài thơ được đưa vào học trong chương trình phổ thông vài thập niên gần đây của ông như Mẹ và Quả; Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ; đặc biệt là bài thơ Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng (Ngữ văn 12), có thể khẳng định rằng: khai thác chất liệu văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian là “dấu vân tay”, là cá tính sáng tạo - nét phong cách nghệ thuật của tác giả, góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn ở thơ ông bởi: “sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam”. Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn chỉ ra các loại chất liệu văn hoá được nhà thơ tìm tòi,khai thác và hiệu ứng nghệ thuật của nó mang lại cho độc giả, tạo nên trường “cộng hưởng” khi thưởng thức cảm thụ bài thơ Đất Nước nói riêng, thơ Nguyễn Khoa Điềm nói chung.
Bài thơ Đất Nước trích phần đầu chương V bản trường ca Mặt đường khát vọng, được sáng tác tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo, tư tưởng bao trùm bài thơ làn“Đất nước là của nhân dân”. Theo đó bài thơ được sáng tác theo phương thức trữ tình- chính luận, có kết cấu 3 phần: phần 1: Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?; phần 2: Đất Nước là gì ? phần 3: Đất Nước do ai làm ra? Khác với các nhà thơ khác viết về Đất nước - Tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và quy chiếu Đất Nước dưới 3 phương diện: thời gian (chiều dài) ; không gian (chiều rộng); văn hoá (chiều sâu),nhất là chiều sâu văn hoá dân tộc.
Trước hết, xin giới thuyết ngắn gọn khái niệm chất liệu văn hoá dân gian. Dựa theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa. Theo đó, chất liệu văn hoá dân gian là những giá trị, những sản phẩm cả vật chất lẫn tinh thần (văn hoá vật thể và phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khái niệm ấy, soi chiếu vào bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy nhà thơ đã rất ý thức và có nhiều tìm tòi, khai thác vận dụng sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hoá để làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước là của Nhân Dân, chứ không phải của các vương triều như quan niệm phong kiến ngày xưa.
Ở phần đầu bài thơ (Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?), nhà thơ tập trung khai thác chất liệu văn hoá dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hoá về phong tục,sản xuất, đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” là mô típ mở đầu quen thuộc của truyện dân gian. Hai hình ảnh “miếng trầu” bà ăn và “búi tóc” sau đầu của mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ là tập tục lâu đời ở người Việt khác xa với người Hán, mà còn gợi ra bao giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt. Gắn với mái tóc người phụ nữ có bao nhiêu câu tục ngữ, ca dao: “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi/ Để chi dài bối rối dạ anh”… Hay tục ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong nó bao nhiêu giá trị sâu xa. Miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu trong các nghi lễ trang trọng: hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao: “miếng trầu là đầu câu chuyện”; miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em: “miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; miếng trầu còn là vật giao duyên tình chồng – vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phượng, trầu mình lấy ta…” Chúng ta có cả một “văn hoá trầu”! Các hình ảnh “cái kèo cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hoá vật chất gắn với thói quen ăn ở của người Việt và cả nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay - muối mặn” không chỉ phản ánh văn hoá “ẩm thực” của dân tộc ta mà còn gợi ra lối sống tình nghĩa thuỷ chung, được khai thác qua các câu ca dao - dân ca: “Tay bưng đĩa muối chén gừng/ Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau”; hoặc: “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn/ Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”. Thật là xúc động và thấm thía.
Sang phần 2 “Đất Nước là gì?” nhà thơ lại có cách khai thác, tìm tòi các chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp các giá trị văn hoá truyền thống với hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của chúng ta hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu: “Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..” nhà thơ muốn chuyển tải thông điệp: Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người, và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi” . Hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc; con cá ngư ông móng nước biển khơi” không chỉ bộc lộ tình yêu với quê hương Bình – Trị - Thiên của mình, mà còn để chỉ ra rằng: đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược; rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em.
Đáng chú ý là ở đoạn cuối phần thơ này, tác giả tập trung khai thác các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân- Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt là “con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên". Câu thơ: “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”, không chỉ nhắc nhớ về các thế hệ vua Hùng (18 đời) có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua câu tục ngữ: “Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha.
Sang phần 3 – phần thể hiện tập trung cảm hứng chủ đạo bài thơ: “Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm lại có cách khai thác, tìm tòi sáng tạo.
Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ đã tập trung tìm tòi khám phá sự giao thoa hoà quyện các truyền thuyết dân gian với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá. Truyện Sự tích núi Vọng Phu vả chăng được dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước, và để dân gian thổi vào đó tấm lòng thuỷ chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Rồi “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy. Chủ ý là khẳng định vẻ đẹp trong tình cảm vợ chồng luôn gắn bó son sắt bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng; đất Tổ Hùng Vương” lại khai thác các truyền thuyết dân gian: truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước và giữ nước. Một loạt tên các người dân: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ (cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen,chợ bà Điểm…).
Để khẳng định nhân dân là người gánh đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc, nhà thơ chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn này ông lặp lại hai lần con số 4000 năm (bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người). Thông điệp ngắn gọn nhân dân là người viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 ngàn năm của dân tộc . Câu thơ “Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc bài ca dao: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ ra đời thời Lê – Mạc tương tàn. Câu thơ: “Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng, bất khuất của phụ nữ Việt Nam…
Ở đoạn khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên. Đó là nền văn minh nông nghiệp: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa; họ chuyền lửa qua mỗi nhà, họ đắp đập be bờ…”. Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Đoạn thơ cuối nhà thơ khai thác chiều sâu ý nghĩa trong nhiều bài ca dao – dân ca. Cụm từ “yêu em từ thuở trong nôi” lấy từ bài ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” để khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thuỷ chung của người Việt. Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” muốn nhắn nhủ với chúng ta phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “Biết trồng tre… Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu/ Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què” là để nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù ta đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Tất cả góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta.
Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phẩm văn hóa dân gian, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo bài thơ "Đất Nước là của Nhân Dân” khi giảng dạy học tập bài thơ này nói riêng và một số bài thơ khác có khai thác sử dụng văn hóa dân gian nước ta nói chung. Tìm hiểu chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giả qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời khẳng định một chân lí “văn hóa dân gian là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ.
Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước - Mẫu 2
Nói đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng dễ dàng hình dung ra một phong cách thơ đậm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề sâu văn hóa trong mối liên tưởng vừa sắc sảo triết lí lại vừa huyền ảo thấp thoáng bóng dáng văn hoá cổ xưa của hồn dân tộc. Thật đúng như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng: “Thơ ca nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”. Nguyễn Khoa Điềm lại được sinh ra và lớn lên giữa lòng chiếc nôi văn hoá Huế. Chính cái chất Huế thâm trầm, hoàng thành rêu phong ngả bóng làm nhuộm tím nước con sông Hương biếc xanh càng khiến thơ Nguyễn Khoa Điềm sâu kín và loáng thoáng chút bí ẩn mơ hồ. Nguyễn Xuân Nam đã có một nhận xét khá rõ nét: “Thơ Nguyễn khoa Điềm... có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống”. Giàu vốn tri thức sách vở Đông Tây, ngồn ngộn chất liệu đời thực là một thế mạnh tạo nên nhiều khoảnh khắc loé sáng trong những liên tưởng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Trong chương “Đất Nước”, ngôn ngữ thơ được sử dụng từ chất liệu văn học dân gian với tần số lớn. tuy nhiên chất liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không còn trong chính dạng bản thân của nó, một sự sao chép sản phẩm cộng đồng mà nó đã được chuyển hóa vào lời chữ, giọng điệu, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ tạo nên bản sắc riêng trong thơ ông.
Chúng ta có một kho tàng ca dao tục ngữ đậm đà phong vị trữ tình, kết tinh những tình cảm cao quý của nhân dân, những kinh nghiệm lao động sản xuất và đấu tranh. Ca dao tục ngữ đã thấm vào Nguyễn Khoa Điềm một cách tự nhiên trong cách nhìn nhận về Đất Nước – một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Dấu tích của ca dao tục ngữ liên tục được triển khai trong mỗi câu thơ. Lí giải về cội nguồn của Đất Nước, nhà thơ bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Đó là một loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
“Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...”
mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thuỷ chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường, đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỉ niệm:
“Đất là nơi anh đến tường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Đan xen với khoảnh khắc thời gian, không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ý thức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về cha Rồng mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ”
Và vì thế, cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước Việt Nam.
Những câu thơ hình như không có gì. Câu nào cũng diễn lại ca dao, tục ngữ, cổ tích mà sao đọc lên vẫn thấy âm vang, thấm thía và xúc động? Những điều hiển nhiên như chân lí bỗng sáng lên giá trị vĩnh hằng, sức trường cửu của dân tộc trên số phận của mỗi người dân vô danh trong lớp lớp thời gian. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được phô bày với tất cả vẻ đẹp lung linh của truyền thống văn hoá vừa gần gũi, cụ thể vừa thiêng liêng, huyền ảo. Nguyễn Khoa Điềm đã biết khai thác chất liệu văn học dân gian ở những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết có tác dụng như việc sử dụng các điển tích, điển cố văn học nhằm làm cho ngôn ngữ thơ thêm cô đọng, hàm súc, tạo nên màu sắc dân gian rất riêng cho thơ ông.
Nhà thơ đã khơi dậy những trầm tích đã đắp bồi nên Đất Nước để thổi bùng ngọn lửa tự hào, yêu nước trong lòng tuổi trẻ đô thị miền Nam những năm Đất nước còn bị chia cắt. Dụng công của tác giả là lấy những chất liệu văn hoá dân gian – cái đặc trưng nhất để làm bật lên tầng sâu văn hoá lịch sử của đất nước mà không một thế lực nào, hiểm hoạ nào có thể xói mòn, sạt lở. Đất nước như thế hiển như một thứ gia tài thiêng liêng của tổ tiên để lại cho con cháu. Mọi hình sông thế núi, sự tích huyền thoại đều được soi nhìn từ khát vọng gửi gắm, trao truyền cho các thế hệ nối tiếp đến vô tận vô cùng.