Văn mẫu lớp 12: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ 4 Dàn ý & 19 bài sức sống tiềm tàng của Mị

Văn mẫu lớp 12: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là tài liệu tham khảo hữu ích.

Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị

Bạn đọc có thể theo dõi nội dung chi tiết được chúng tôi đăng tải ngay sau đây để có thêm ý tưởng.

Dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị

1. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài, tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
  • Dẫn dắt, giới thiệu về nội dung cần phân tích: sức sống tiềm tàng của Mị.

2. Thân bài

a. Trước khi trở thành con dâu gạt nợ

- Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo.

- Cô đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

- Một cô gái hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

b. Từ khi trở thành con dâu gạt nợ

- Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma.

- Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa”, bị đánh đập dã man...

- Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: “mặt buồn rười rượi”, sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

- Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

  • Âm thanh (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình...) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.
  • Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm ...”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
  • Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

- Nhận xét: Sức sống mãnh liệt luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

- Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

  • Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
  • Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”.
  • Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.

- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

3. Kết bài

Khẳng định sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị.

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 1

Tô Hoài là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tập "Truyện Tây Bắc" của ông có truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm nổi bật nhất. Tác giả đã đem đến câu chuyện về Mị - một con người bị vùi dập bởi chế độ phong kiến miền núi nhưng vẫn luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.

Mị được giới thiệu là cô gái người Mèo xinh đẹp, thổi sáo giỏi. Có biết bao trai làng say mê nhan sắc và tiếng sáo của cô mà kéo đến đầy sân nhà, đứng thổi sáo chung quanh vách, khiến bố mẹ cô không thể ngủ được vì tiếng chó sủa cả đêm. Mị cũng là cô con gái hiếu thảo, chăm chỉ. Biết nhà vẫn còn nợ thống lí nên Mị sẵn sàng làm nương trả nợ thay bố. Trước khi bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra bắt làm vợ, Mị là cô gái tự do, yêu đời, tràn đầy sức sống. Thế nhưng, từ khi bị bắt phải lấy người mình không yêu, đêm nào cô cũng khóc. Cô không thể chấp nhận hiện thực phũ phàng này, muốn ăn lá ngón để tự tử, thà chết chứ không chịu khuất phục, làm nô lệ cho nhà giàu. Thế nhưng sự phản kháng của cô đã không thành công. Vì thương bố, cô đành tiếp tục sống.

Ở nhà thống lí vài năm, Mị đã bị tha hóa, trở thành một con người hoàn toàn khác. Cuộc sống của cô không có niềm vui, suốt ngày chỉ có làm việc và làm việc quần quật quanh năm suốt tháng. Mị "tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa trong nhà" ấy. "Càng ngày, cô càng không nói", chỉ "cúi mặt buồn rười rượi", trở thành "con rùa nuôi trong xó cửa". Cô đã quen với cuộc sống ấy đến nỗi nghĩ rằng mình sẽ sống như vậy và chết ở trong nhà đó. Bị bóc lột sức lao động mà không thể phản kháng, Mị dần đánh mất đi bản thân mình. Cô không còn khát vọng được sống, không có khái niệm về thời gian, hoàn toàn lãnh đạm với mọi thứ xung quanh.

Thế nhưng, nỗi khát vọng sống của cô không mất đi hoàn toàn mà chỉ bị cuộc sống quẩn quanh, bế tắc che khuất. Nó vẫn là ngọn lửa đang âm ỉ cháy, chỉ cần điều kiện để bùng lên mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, Mị nghe thấy tiếng sáo, cô nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà ngày xưa mình từng thổi. Cô lén người nhà thống lí uống rượu, nhớ về những ngày mùa xuân năm xưa. Khi này, khát vọng tuổi trẻ bỗng quay về. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại, Mị cảm thấy mình còn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Cô ước muốn được hòa mình vào với mọi người, được đi chơi như những người còn trẻ, không muốn bị giam trong căn buồng tối tăm, chật hẹp cả ngày nữa. Sức sống tiềm tàng của Mị đã được thổi bùng lên nhờ men rượu và tiếng sáo. Không những thế, cô còn nghĩ lại về cuộc sống đầy tủi nhục của mình hiện tại, ước rằng nếu có nắm lá ngón trong tay, cô sẽ ăn cho chết ngay. Khát vọng được sống quay lại, cô càng đau đớn, nghẹn ngào, thương cho số phận của mình mà muốn phản kháng. Và cách phản kháng duy nhất cô có thể làm hiện tại là chết đi, thoát khỏi cuộc sống đọa đầy này. Từ dòng suy nghĩ kia, Mị hành động ngay lập tức. Cô quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, chuẩn bị sửa soạn để đi chơi. Thế nhưng, niềm khát khao trong Mị vừa bùng lên lại bị vùi dập tàn nhẫn. A Sử thấy Mị, đoán biết cô muốn đi chơi bèn dùng dây đay trói cô, quấn luôn cả mái tóc dài của cô lên cột. Cô đau đớn đứng đó, không quay đầu đi đâu được. Cả cơ thể bị dây đay siết chặt nhưng tâm hồn cô vẫn đi theo tiếng sáo đến những cuộc chơi. A Sử chỉ có thể trói được thể xác chứ không trói được tâm hồn của Mị. Từ đó, người đọc có thể khẳng định rằng sức sống trong Mị vẫn luôn ở đó, chưa bao giờ mất đi.

Đến cảnh cởi trói cho A Phủ, sức sống tiềm tàng của Mị lần nữa được trỗi dậy. Mới đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói, bị vẫn rất lạnh lùng, thản nhiên hơ tay, hơ lưng cho bớt lạnh. Dường như A Phủ không phải là một con người bị trói đứng trên cột mà chỉ là cái cây, cái thúng dựng bên cạnh cột mà thôi. Thế nhưng, khi nhìn thấy giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ, Mị bỗng thức tỉnh. Cô nhớ lại chính mình trong đêm tình mùa xuân. Cô cũng đã từng bị A Sử trói đứng ở chính đó, đau đớn, tuyệt vọng như thế. Lòng đồng cảm dần xuất hiện trong cô. Rồi Mị nghĩ cuộc đời mình đã bị cúng trình ma ở nhà thống lí, chết ở đây cũng không sao, nhưng A Phủ không đáng bị điều đó. Suy nghĩ này cho người đọc thấy được tình thương người trong Mị đã quay trở lại. Cô không còn thờ ơ, lãnh cảm trước cuộc đời nữa. Thậm chí, Mị nghĩ rằng cho dù bố con thống lí biết Mị cởi trói cho A Phủ, bắt cô trói thay vào đó rồi chết đi, Mị cũng không sợ. Đến lúc này, tình thương người đã vượt lên nỗi sợ cái chết. Sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy mạnh mẽ, hóa thành hành động cởi trói. Khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng đã tự tay cắt đi xiềng xích giữa hai con người với nhà thống lí. Cũng từ đó, Mị quyết định chạy trốn theo A Phủ. Đây không phải là hành động bản năng mà là kết quả của sức sống tiềm tàng, của khát vọng tự do hạnh phúc khi còn trẻ mà cô không thực hiện được. Chính trong đêm ấy, cô Mị tràn đầy tình yêu cuộc sống, căm ghét chế độ thống trị miền núi đã quay trở lại.

Qua truyện ngắn, ta thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất sắc sảo của nhà văn Tô Hoài. Chỉ bằng một vài hành động, suy nghĩ của Mị, ông đã chỉ cho ta những khao khát, những niềm mong muốn bị chôn giấu từ tận đáy lòng của con người trong nghịch cảnh. Ngoài ra, việc có được một tác phẩm thành công, nổi tiếng như "Vợ chồng A Phủ" còn nhờ vốn hiểu biết sâu rộng của nhà văn về mảnh đất Tây Bắc và tình cảm trân trọng, yêu quý của ông với những con người nơi đây.

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 2

Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng) lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỷ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Nhưng nhắc đến Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám, người yêu văn không thể không nhắc tới "Dế mèn phiêu lưu kí"; sau Cách mạng tháng Tám với tập "Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện ngắn: "Cứu đất cứu Mường", "Mường Giơn giải phóng" và "Vợ chồng A Phủ". Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với "Cát bụi chân ai" và tiểu thuyết "Ba người khác". Đến nay "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức của nhà văn Tô Hoài. Truyện được giải thưởng văn nghệ 1954-1955 là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Tô Hoài. Truyện xoay quanh cuộc đời của người con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp nết na được Tô Hoài phát hiện và thể hiện với sức sống tiềm tàng bất diệt. Đó là Mị – nhân vật chính trong tác phẩm này. Thông qua sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài bộc lộ là một nhà văn nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sê- khốp đã từng nói: "Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy". Và Tô Hoài là một nhà văn như thế.

Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tô Hoài sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ, bộc lộ vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau, có sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống và con người miền núi khiến những tác phẩm viết về đề tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. Truyện ngắn Vợ chồng A phủ được sáng tác năm 1952 in trong tập truyện Tây Bắc (1953). Vợ chồng A phủ không chỉ là truyện ngắn hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc nói riêng, trong mảng sáng tác của Tô Hoài về đề tài miền núi nói chung mà còn là một tác phẩm có giá trị của văn xuôi Việt Nam hiện đại khi phản ánh chân thực và sinh động con đường của nhân dân miền núi cao Tây Bắc đi theo cách Mạng.
Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng vì mê tiếng sao mà ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng sáo cho thấy cái tài và cái tình của người thổi sáo. Có lẽ, Mị đã gửi bao tình cảm, biết bao khát khao vào tiếng sáo ấy khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết tha yêu sống của cô đã thông qua tiếng sáo mà làm rung động mê đắm lòng người. Mị là người con gái có tính cách mạnh mẽ, tự chủ. Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát yêu và có người yêu theo sự lựa chọn của trái tim mình. Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị về làm dâu gạt nợ của nhà thống lí, Mị tha thiết xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ, Mị khóc xin cha “đừng bán con cho nhà giàu” – cô muốn tự quyết định số phận của mình mà không chấp nhận biến mình thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu. Mị vốn là cô gái có trái tim vị tha, nhân hậu. Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con rất hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự nguyện làm việc trả nợ thay cho bố mẹ; khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, không chịu nổi kiếp sống đọa đày đau khổ Mị muốn tự giải thoát bằng cái chết, vậy mà vì thương bố, sợ làm liên lụy đến bố, Mị lại gạt nước mắt, chấp nhận quay về nhà thống lí, chấp nhận sống tiếp cuộc đời nô lệ nhọc nhằn, khổ ải, cuộc sống đáng sợ hơn cả cái chết.

Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, yêu đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy? Không, ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, nét mặt u tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng, để khơi gợi nó lên. Tô Hoài đã đi sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của khát khao hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là lại bùng lên. Trong truyện ngắn Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao còn khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở Chí Phèo, một kẻ tưởng như không còn đời sống tâm linh của con người với một hình thái không còn là nhân dạng nữa. Và Tô Hoài cũng góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh.

Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người miền Tây Bắc khi mùa xuân đến đã được miêu tả trong những đoạn văn thật trữ tình, giàu chất thơ để làm nền cho sự hồi sinh sức sống của nhân vật. Đó là cảnh những đứa trẻ con tinh nghịch đốt những lều canh nương để sưởi lửa, hình ảnh những cái váy hoa đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ; sắc vàng ửng của cỏ gianh trong gió và rét dữ dội, hình ảnh những đám trai gái đánh pao, chơi quay, thổi khèn, thổi sáo say sưa; đặc biệt là âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ ngoài đầu núi. Những âm thanh, màu sắc, hình ảnh ấy đã tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp thơ mộng, nồng nàn, rạo rực tình yêu, tràn trề sức sống. Đó là những yếu tố ngoại cảnh góp phần gọi dậy những khát vọng tình yêu và hạnh phúc vẫn âm ỉ đâu đó trong lòng Mị.

Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bổi hổi. Người đàn bà vô cảm thờ ơ với tất cả, nay không chỉ chú ý lắng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, cô còn hình dung ra bóng người lấp ló đầu núi thổi sáo gọi bạn tình, còn nhận ra sắc thái thiết tha, bổi hổi của tiếng sáo, thậm chí người đàn bà âm thầm câm lặng ấy đã nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Bằng cách ấy, cô đã trở về với quá khứ, nhớ lại những giai điệu ngọt ngào từ thuở xa xôi, đã bắt đầu mở lòng mình để đón nhận và hòa vào âm thanh nồng nàn của tình yêu gửi trong tiếng sáo. Sau đó, Mị lén lấy rượu ra uống. cảnh Mị uống rượu được miêu tả thật tinh tế, thể hiện chân thực những biến đổi âm thầm mà dữ dội trong tâm hồn người đàn bà tưởng như đã nguội tắt sức sống. Cô uống ừng ực từng bát- uống như để say, để quên, uống như một người đang chết khát; uống như muốn dùng cái men say của rượu để dìm đi những nuối tiếc, khát khao và phẫn uất đột ngột bùng cháy trong lòng; uống như muốn mượn cái đắng cay của rượu làm vơi đi những cay đắng trong lòng Mị uống rượu và lại nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Từ văng vẳng không chỉ gợi tả tiếng sáo ở xa, đó còn là những âm thanh của hoài niệm đưa Mị trở về với tiếng sáo và bài hát của người bạn tình năm xưa, khiến Mị như trở lại với cô gái xinh đẹp tài hoa thuở nào, uống chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. người đàn bà tưởng như không còn sợi dây liên hệ với cả hiện tại và quá khứ, không thiết nghĩ đến tương lai, nay lịm mặt – sống về ngày trước với bao nhiêu khát vọng tình yêu, khát vọng tuổi trẻ. Ảo giác của quá khứ mãnh liệt đến mức gần như xóa mờ những bất hạnh của hiện tại khiến Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng, mị bất ngờ nhận ra mình trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Ý thức được mình hãy còn trẻ, lòng cũng như trẻ lại, Mị bỗng muốn được đi chơi, được tới những đám vui, những cuộc vui, hòa vào không khí rạo rực của mùa xuân, của tình yêu, hạnh phúc. Nhưng ý muốn được đi chơi trong đêm hội mùa xuân như mọi người đàn bà khác ở Hồng Ngài lại khiến Mị nhớ ra bao nhiêu năm nay, A Sử không bao giờ cho Mị đi chơi, mà Mị cũng chẳng thiết đi. Nhớ đến điều đó, Mị cũng đồng thời nhận thức sâu sắc tình trạng phi lí trong cuộc hôn nhân của mình khi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Cái thực tế đau khổ mà cô đã quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức không còn tưởng đến sự chết nữa, nay bỗng trở nên phi lí tới không thể chấp nhận. Mị đột ngột muốn chết, nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, mị sẽ ăn cho chết ngay... chết để không phải nhớ lại quá khứ và những ước mơ, khao khát của mình, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Muốn chết là biểu hiện mãnh liệt nhất, dữ dội nhất của sự thức tỉnh lòng ham sống, lòng khát khao hạnh phúc, niềm khát khao ấy tạo ra sự xung đột gay gắt với tình trạng vô nghĩa lý của thực tại. khi bắt đầu nhận ra sự xung đột gay gắt với tình trạng vô nghĩa của thực tại. khi bắt đầu nhận ra nỗi cay đắng, phẫn uất trong lòng mình, cảm thấy không thể tiếp tục chấp nhận kiếp sống tủi cực đau đớn, cũng có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi vô cảm suốt bao năm nay.

Vậy mà, dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập rờn, tiếng chó sủa xa xa... Mị phải sống trong giằng xé đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong sợi dây trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cùng những khát vọng đã trở lại và cũng đã bị vùi lấp tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, có lẽ nó sẽ còn mãi ám ảnh, thao thức trong lòng Mị, dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Khi đã nhận ra sự khổ ải, cảm nhận về sự khổ ải sẽ càng thấm thía. Từ nay, có lẽ Mị sẽ không thể yên ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi trẻ đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai.

Sau đêm tình mùa xuân năm ấy, thái độ và dáng vẻ bên ngoài của Mị dường như quay về với con người cũ, nhẫn nhục và vô cảm. Tuy nhiên, sức sống vẫn âm ỉ tiềm tàng đâu đó trong lòng Mị, đó là điều mà thậm chí chính Mị cũng chưa tự nhận ra. Có lẽ cô vẫn nghĩ lòng mình đã chết hẳn và không thể ngờ sức sống mãnh liệt ấy sẽ trở về với cô trong một đêm đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài. Sự vô cảm với nỗi đau của cả người khác và chính mình được thể hiện trong những chi tiết miêu tả thái độ, tâm tư của Mị khi hàng đêm ra sưởi lửa, hơ tay ở bếp lửa gần nơi A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng ở cây cọc ngoài trời. Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người con trai bị trói, bị đói và rét đang chờ chết bên cạnh mình. Mị cũng ý thức được sự vô cảm của mình khi thản nhiên thổi lửa, hơ tay bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn nghĩ rằng nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Thật ra thì cô không chỉ thờ ơ với nỗi khổ của A Phủ, bản thân mình bị A Sử đánh ngã xuống cửa, cô còn dửng dưng, không thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi, đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước.

Nhưng một cái gì đó chưa chết hẳn trong lòng Mị mới đột ngột thức dậy trong một đêm khi ngẫu nhiên Mị quay sang và nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Một người con trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị trói đứng chờ chết. Một người con trai ngang tàng mạnh mẽ bây giờ phải lặng lẽ khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng, không thể che dấu vì không thể tự lau đi được. Dòng nước mắt đàn ông lấp lánh trong ánh lửa khiến nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất lực cùng cực của con người trở nên hiện hữu sống động. Cảnh tượng ấy làm Mị nhớ lại cảnh mình cũng từng bị trói, cũng từng khóc cay đắng, nước mắt cũng chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Nỗi đau đớn, tủi cực của mình trong quá khứ đã giúp Mị nhận ra nỗi đau của chính mình, sự đồng cảnh đã dắt dẫn cho trái tim vô cảm thờ ơ của Mị trở về với những sự đồng cảm đầu tiên. Hình dung ra cái chết của mình nếu tiếp tục bị trói như thế; nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước ở nhà thống lí; nghĩ đến cái chết của A Phủ sắp tới – Mị bất chợt nhận ra tất cả những cái chết ấy đều có nguyên nhân từ sự tàn bạo của cha con nhà thống lí Pá Tra, lòng thương thân thức dậy tình thương người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm hờn, phẫn uất: chúng nó thật độc ác! Với bản thân mình, Mị có vẻ như đã cam chịu: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây, nhưng trong lòng Mị lại phảng phất nghĩ về sự vô lí trong cái chết của A Phủ: người kia việc gì phải chết thế. Sau bao nhiêu năm tháng sống trong sự thờ ơ vô cảm, có lẽ đây là ý nghĩ đầu tiên Mị dành cho người khác, bất bình thay cho người khác. Xúc cảm của trái tim nhân hậu vị tha tiếp tục đậm nét hơn khi Mị nhận ra tình cảnh của A Phủ: chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết... Những từ chết xuất hiện liên tiếp trong tâm trí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất của niềm ham sống một lần nữa đã trở lại với Mị, trở lại với sự kinh hoàng về cái chết, với mỗi phẫn uất về cái chết của những con người hiền lành lương thiện, những con người cùng cảnh ngộ. Nghĩ tới việc nếu A Phủ trốn thoát, Mị phải chết thay, Mị cũng không thấy sợ. Như vậy, nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ không phải vì sợ liên lụy mà là sự thúc đẩy của cảm giác bất bình, phẫn uất, do sự thức tỉnh của lòng nhân hậu, thương người, sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ, là sự cùng dậy tự phát, đột ngột mà quyết liệt trong sự bức bách khắc nghiệt của hoàn cảnh. Dẫu vậy, khi rút sao cắt dây trói cho A Phủ, Mị vẫn như đang làm theo sự mách bảo của tiềm thức mơ hồ tồn tại trong một tấm lòng nhân hậu vẫn chưa hoàn toàn bị hủy hoại, vì thế nên khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, có lẽ lúc ấy, lí trí của Mị mới chợt nhận ra tiềm thức thức đã xui khiến cô làm một việc thật ghê gớm!

Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng đồng thời thoát ra khỏi trạng thái vô cảm, lặng lẽ, trái tim nhân hậu hồi sinh thì đồng thời khát vọng sống cũng hồi sinh. Mị đã không còn vô cảm với nỗi đau khổ của người khác thì cũng đến lúc không thể tiếp tục vô cảm với nỗi đau khổ của chính mình. Có lẽ, sau giây phút đứng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vụt đi, hình ảnh một con người trên bờ vực của cái chết đang mạnh mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần gian, tìm cho mình sự sống khiến Mị đột ngột hiểu điều mình cần phải làm ngay bây giờ, ngay lập tức, đó là tự giải thoát đời mình khỏi sự thống trị, đầy ải, trói buộc tàn bạo của cường quyền và thần quyền trong suốt bao năm qua. Sau đó, tác giả đã miêu tả những hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng những động từ mạnh mẽ, gấp gáp: Mị cũng vụt chạy ra... Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp... Mị nói, thở... không còn những dòng độc thoại nội tâm, dường như những hành động của Mị nhanh hơn cả lý trí, những hành động chịu sự chi phối của khát vọng sống vốn luôn tồn tại đâu đó trong tiềm thức, khát vọng sống đã đột ngột thức dậy mãnh liệt và bất ngờ trong lòng Mị. Người đàn bà lặng lẽ, vô hồn, vô cảm ấy đang hối hả tự cứu mình, người đàn bà câm lặng như tảng đá ấy đã cất lên tiếng nói xin được giải thoát: A Phủ cho tôi đi; người đàn bà hơn một lần muốn chết ấy nay khẩn thiết mong được sống, mong được theo A Phủ bởi nỗi kinh hoàng trước cái chết: ở đây thì chết mất. Khát vọng sống mãnh liệt đã thức tỉnh hoàn toàn như sự thức tỉnh khát vọng tuổi trẻ, tình yêu trong đêm tình mùa xuân và không còn dừng lại ở ảo giác hay khát khao mà đã trở thành những hành động quyết liệt, triệt để chống lại số phận, chống lại vòng cương tỏa độc ác của cha con nhà thống lí, giành lại cho mình quyền được sống, quyền được tự do. Thành công của vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vợ chồng A Phủ cũng là thiên truyện tràn đầy chất thơ khi thể hiện những rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, đồng thời có khả năng truyền được cảm xúc ấy đến người đọc. Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài mang tính truyền thống nhưng cũng rất uyển chuyển, sáng tạo từ cách giới thiệu nhân vật đặc biệt ấn tượng với cốt truyện vừa liền mạch theo trình tự thời gian vừa đan xen những hồi ức, pha trộn giữa quá khứ và hiện tại, giữa những mơ hồ của tiềm thức với những lộn xộn chồng chéo của tâm tư..., nhờ thế mà mạch truyện biến đổi sinh động hấp dẫn mà vẫn mạch lạc. nhiều đoạn được sử dụng thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trong đời sống nội tâm của nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm giữa nhà văn, nhân vật và người đọc. Ngôn ngữ của Tô Hoài giản dị, phong phú, đầy sáng tạo. Lời văn mượt mà, sâu lắng, trữ tình, giàu tính tạo hình và sức truyền cảm sâu sắc. Ngôn ngữ vừa có sự vận dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi, vừa giữ được tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học. Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn. Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ định giải thoát trong chốc lát. Lần thứ hai không có sự hỗ trợ từ ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ quyết liệt hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự giằng buộc của cả cường quyền lẫn thần quyền. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của kí ức, khát vọng sống tự do đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu, Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình. Hành động táo bạo và đầy bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong lòng Mị luôn tiềm ẩn cả sức sống tiềm tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc, càng bị vùi dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, với hành động này Mị đã chiến thắng số phận. Nàng Kiều bị xô đẩy vào cuộc sống thanh lâu ô nhục, đã bao lần cố sức vùng vẫy thoát ra, và tấm lòng nhớ cha mẹ, nhớ người yêu vẫn tha thiết đau đớn suốt ngần ấy năm trời lưu lạc. Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng, sống cuộc đời một “Bỉ vỏ” dưới đáy xã hội, bị khinh khi săn đuổi nhưng vẫn không nguôi khát khao một cuộc sống lương thiện trong sạch. Chỉ có điều là những tác giả văn học quá khứ đã không tìm ra con đường giải thoát cho những nạn nhân đau khổ ấy trong tác phẩm của họ, còn cô Mị - cũng như nhiều nhân vật khác trong tác phẩm văn học cách mạng hiện đại thì đã tìm thấy con đường giải phóng thực sự , tìm thấy sự thực hiện những ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng.

Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị đã cho chúng ta một lần nữa lại thấy được Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lý muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Lại nhớ đến một ý của Hêghen: phải đẩy tới chóp đỉnh của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình vẻ mới hiện ra. Những trang văn đẹp lời đẹp ý bậc nhất trong truyện ngắn này có lẽ thảy đều diễn đạt cái sự sống nhiều hình vẽ trên chóp đỉnh mâu thuẫn đó.

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 3

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông phải kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Truyện kể về những người dân nghèo miền núi dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến với số phận vô cùng bi thảm, khốn cùng. Thế nhưng, sâu thẳm trong con người họ, ta vẫn thấy toát lên những nét đẹp, phẩm chất cao quý của tâm hồn. Một trong vẻ đẹp đó chính là sức sống vô cùng mãnh liệt và mạnh mẽ. Điều này được thể hiện chân thực và rất sống động thông qua hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Nhà văn Tô Hoài bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng một số tác phẩm thơ và tác phẩm truyện vừa võ hiệp. Nhưng tài năng của ông thực sự tỏa sáng khi ông chuyển sang viết văn xuôi hiện thực. Tô Hoài là một nhà văn có một vốn kiến thức phong phú về các tập quán, phong tục của nhiều vùng miền trên cả nước. Các tác phẩm của ông đều có văn phong trần thuật hóm hỉnh, sinh động, với vốn từ giàu có, bình dân, thông tục. Vậy nên những câu chuyện của ông đều rất lôi cuốn và lay động người đọc. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, sau chuyến đi thực tế của chính tác giả cùng đồng đội vào giải phóng miền Tây Bắc của Tổ quốc, được in trong tập Truyện Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, ta có thể thấy được cuộc sống cực nhục, tăm tối của những người đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc cùng hành trình tự vùng lên giải phóng khỏi ách áp bức, thống trị của bọn thực dân và chúa đất lúc bấy giờ. Đồng thời Tô Hoài còn muốn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn tràn đầy sức sống của những người dân nghèo ấy cũng như chỉ ra cho họ một con đường để được đổi đời dưới ánh sáng của Cách mạng.

Nhân vật trung tâm của câu chuyện Vợ chồng A Phủ là Mị - một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp, nết na và hiếu thảo. Thế nhưng cuộc sống của cô lại là một chuỗi những tháng ngày bi thảm, đau khổ. Cha mẹ Mị cưới nhau không có tiền phải vay bạc nhà thống lý Pá Tra, làm quần quật đến lúc chết cũng không đủ trả nợ. Chính vì thế, Mị bị "bắt" trở thành "con dâu gạt nợ" nhà thống lý, trở thành vợ của A Sử. Mang tiếng là "con dâu" thế nhưng thực chất Mị chỉ là thân phận nô lệ, là kiếp người ở không công trong gia đình chồng , bị đày đọa về cả thể xác và tinh thần. Mị phải làm việc triền miên suốt cả năm "tết xong thì lên núi hái thuốc phiện", "giữa năm thì giặt đay xe đay", "đến mùa thì đi nương bẻ bắp", rồi lúc nào cũng có "bó đay trong cánh tay để tước thành sợi". Mị sống kiếp con người nhưng lại chẳng bằng "con trâu, con ngựa" trong nhà, suốt năm tháng phải "vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Hơn thế, Mị còn bị đày đọa về tinh thần khi phải sống trong một cuộc hôn nhân không tình yêu "không có lòng với nhau mà phải ở với nhau", và bị đánh đập, hành hạ, và bị tước mất quyền sống, quyền được tự do.

Thế nhưng trong tâm hồn Mị vẫn tiềm tàng một sức sống vô cùng mãnh liệt và nó đã bùng cháy lên thật mạnh mẽ trong một đêm tình mùa xuân. Đêm tình mùa xuân với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn yêu đã đánh thức trong Mị khao khát tự do, khao khát một cuộc sống với tình yêu và hạnh phúc. Thêm vào đó là hơi rượu nồng nàn đã khiến tâm hồn tưởng như đã tê liệt của Mị lại thăng hoa trở lại, làm trỗi dậy trong tâm hồn Mị bao nhiêu là cảm xúc. Tiếng sáo và men rượu đã đưa Mị trở về những ngày xưa, những ngày còn tự do, hạnh phúc, những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ. Tất cả đã khiến cho lòng Mị đột nhiên bừng dậy, phơi phới niềm vui "đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". Đó cũng là lần đầu tiên trong đời, Mị ý thức được quyền sống của bản thân mình. Nếu trước đây Mị nghĩ mình chẳng bằng thân "con trâu con ngựa" trong nhà thống lý thì nay, Mị đã ý thức được mình là một người con gái đang trong vòng của tuổi trẻ. Mị biết rằng "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ". Niềm khát khao được đi chơi xuân bùng lên mãnh liệt trong tâm hồn Mị "Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết". Khát khao ấy trào lên, dâng lên mãnh liệt trong tâm hồn của Mị. Điều đó chứng tỏ sâu thẳm trong trái tim tưởng như đã tê liệt của Mị là bao nhiêu những khát vọng của tự do, của tuổi trẻ, của tình yêu, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy.

Thế nhưng, vào lúc Mị ý thức được quyền sống của mình, khao khát được đi chơi xuân thì cũng là lúc Mị đau khổ hơn bao giờ hết khi nghĩ về số phận bi thảm, tình cảnh hiện tại của mình. Cuộc sống địa ngục cùng một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với A Sử "không có lòng với nhau mà phải ở với nhau" đã khiến Mị đau đớn vô cùng. Nỗi đau cùng sự ý thức mãnh liệt về quyền sống đã đánh thức sự phản kháng của Mị. Mị muốn tìm đến cái chết như một sự giải thoát khỏi số phận bi thảm của mình "Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Lúc nghĩ về cái chết cũng chính là lúc ý thức phản kháng của Mị mạnh mẽ hơn bao giờ hơn. Mị muốn sống phải được sống trong yêu thương, hạnh phúc, tự do nếu không thà chết còn hơn. Chúng ta không còn thấy một cô Mị cam chịu, nhẫn nhục "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa nữa" mà thấy được một cô Mị khác bừng bừng một khát vọng hạnh phúc tự do, một sức sống mãnh liệt vô cùng của tuổi trẻ. Vượt qua những suy nghĩ về cái chết, Mị mong muốn được hưởng sự tự do, được hưởng những niềm vui của tuổi trẻ trong những ngày xuân đang phơi phới này. Chính vì thế, Mị mới "lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vài đĩa đèn cho sáng" rồi chuẩn bị đi chơi. Mị "quấn lại tóc", "với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Khát vọng tự do, hạnh phúc đã thôi thúc Mị hành động, và Mị đang quyết liệt giành giật với số phận để lấy lại hạnh phúc, tự do của mình đã bị tước đoạt ngày trước. Ngay cả trong vòng dây trói nghiệt ngã tàn bạo của A Sử thì sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị cũng không hề vơi cạn. Để Mị không thể đi chơi xuân, A Sử đã "trói đứng Mị vào cột nhà". Vòng dây trói "thít lại, đau nhức", tay chân, cổ của Mị "đau đứt từng mảnh thịt", thế nhưng vòng dây trói đó chỉ trói được thể xác của Mị, còn tâm hồn của Mị vẫn đang tự do, bay bổng theo tiếng sáo. Nó "đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi" và Mị vẫn "nồng nàn tha thiết nhớ". Tác giả đã đặt nhân vật Mị vào trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, bị chà đạp, bị dày vò đau đớn, thế nhưng điều đó chỉ càng làm bừng lên sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng trong con người cô.

Thông qua hình ảnh của nhân vật Mị, tác giả muốn gửi lời trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động. Những tâm hồn giàu sức sống vươn lên dù phải sóng trong bi thảm của cuộc sống, họ vẫn luôn hướng về khát khao được tự do, hạnh phúc, và không cam chịu chấp nhận số phận nô lệ. Ca ngợi vẻ đẹp của con người, ngòi bút của Tô Hoài đã mang đậm tinh thần nhân đạo cao cả. Về mặt nghệ thuật, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng rất thành công nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với cảm hứng lãng mạn. Ông đã thể hiện sự tài hoa của mình trong cách miêu tả nội tâm nhân vật. Thế giới nội tâm là trạng thái khó nắm bắt nhất của con người nhưng Tô Hoài đã miêu tả từng bước diễn biến tâm lý của Mị hết sức tinh tế, sâu sắc và hợp lý với quy luật phát triển tâm lý của con người.

Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh tinh thần lớn lao của những người lao động. Trong bi thảm của cuộc sống, họ vẫn cố vươn lên, vẫn khao khát về tình yêu, hạnh phúc, không chịu khuất phục dưới cười quyền. Đó là tấm lòng nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm đến những số phận bất hạnh. Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của nhà văn tài hoa - Tô Hoài.

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 4

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953, sau chuyến đi thực tế bộ đội và nhân dân vào chiến dịch Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương.

Tiêu biểu cho những con người, những số phận ấy chính là Mị, một phụ nữ đã chịu muôn vàn đắng cay, tủi cực. Song, cũng chính người phụ nữ ấy luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt để khi bị chà đạp đến tận cùng đã trỗi dậy mạnh mẽ.

Mị xuất hiện ngay từ những dòng đầu của tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Đó là hình ảnh một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra. Nhưng thực ra, đây là một cô Mị khác, còn cô Mị ngày xưa dường như đã chết rồi.

Ngày xưa, lúc còn ở nhà với cha, Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo hay, có bao nhiêu trai làng mê. Nhà Mị cũng như những nhà có con gái khác, mỗi năm đến Tết, bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến đứng thổi sáo chung quanh vách. Mị được yêu và cũng đáng yêu.

Vả lại, cô còn là người có ý thức về sự tự do của mình. Nhà Mị vốn rất nghèo, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đi vay nhà thống lí… Mỗi năm nộp cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Mẹ Mị chết cũng chưa trả hết nợ. Nhưng khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị cho cô về làm dâu để gạt nợ thì Mị đã xin: Con nay đã biết cầm cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.

Tuổi thanh xuân của Mị bị cắt ngang bởi cái án nợ đời cha mẹ để lại. Mị bị bắt cóc về làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ.

Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?

Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu” Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. “Con rùa nuôi trong xó cửa” ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.

Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.

Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi dây, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.

Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có “nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, ít miêu tả hành động bên ngoài, nếu miêu tả thì chú ý những hành động lặp đi lặp lại (thường cúi mặt, mặt buồn rười rượi ). Mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng (mùa xuân của thiên nhiên của đất trời như gợi lên cả sức sống mùa xuân trong lòng Mị).

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 5

Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ có phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.

Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.

Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.

Sức sống tiềm tàng của Mị - Mẫu 6

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như "Ổ chuột", "Dế mèn phiêu lưu ký". Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như "Truyện Tây Bắc", "Miền Tây" Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ " chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai "ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị yêu lao động "biết cuốc nương làm ngô". Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lí, Mị tha thiết van xin "bố đừng bán con cho nhà giàu". Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.

Lúc đầu mới về "làm dâu" để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã "hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay "trông ra ngoài không biết sương hay là nắng". Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày "tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp". Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá "càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?

Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường". Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động "nổi loạn nhân tính". Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu" Mị uống ực từng bát rồi say". Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.

Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau". Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.

Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật "Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi dây, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.

Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi". Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn "Mị vùng bước đi". Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi "tay chân đau không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng "Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận "chúng nó thật độc ác". Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi". Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùng lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

...................Xem chi tiết tại file tải dưới đây.................

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm