Văn mẫu lớp 12: Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ 2 Dàn ý & 26 mẫu Mị trong đêm đông cứu A Phủ
Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ, được Eballsviet.com cung cấp đến bạn đọc.
Tài liệu gồm 2 dàn ý và 26 mẫu tham khảo. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết được đăng tải ngay sau đây.
Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
- Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ
- Sơ đồ tư duy tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ ngắn gọn
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 1
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 2
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 3
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 4
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 5
Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắt, giới thiệu đến đoạn Mị cởi trói cho A Phủ.
2. Thân bài
- Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”.
- Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.
- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của đoạn cởi trói cho A Phủ.
Sơ đồ tư duy tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ ngắn gọn
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gửi gắm nhiều thông điệp giá trị, trong đó phải kể đến đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Trước hết, A Phủ là một chàng trai mồ, khỏe mạnh, giỏi lao động. Vì đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt làm thân nô lệ cho nhà thống lí. Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò, bị thống lí phạt trói, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Ban đầu, khi A Phủ bị trói, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Cô thầm nghĩ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Lúc này, Mị đã hoàn toàn rơi vào trạng thái vô cảm, không quan tâm tới bất cứ điều gì. Vào đêm hôm sau, Mị vẫn ra sưởi như đêm trước, nhưng rồi “Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo là cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Có thể thấy, hành động cắt dây trói cho A Phủ, hay cũng chính là giải thoát cho chính mình. Ở đoạn cuối, Mị chạy theo A Phủ, gọi với theo: “- A Phủ cho tôi đi.”, “- Ở đây thì chết mất.”. Rõ ràng, hành động và lời nói của Mị lúc này cho thấy còn mang tính tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, nhằm mục đích tự giải phóng bản thân khỏi áp bức của giai cấp thống trị. Quan đây, có thể thấy, Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 1
Tố Hữu, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, từng nói: “Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. Cũng chính vì thế, ta hiểu rằng văn học và đời sống luôn song hành với nhau - văn chương chính là tấm gương phản chiếu rõ nét nhất những hiện thực của đời sống thường ngày. Với ý niệm này, nhà văn Tô Hoài đã chấp bút viết nên “Vợ chồng A Phủ” để tái hiện lại bức chân dung chân thực về các dân tộc ở Tây Bắc xuyên suốt những năm tháng cách mạng. Được tác giả miêu tả sâu sắc nhất, nhân vật Mị - bông hoa ban núi rừng hiện lên như một biểu tượng cho người phụ nữ Tây Bắc lúc bấy giờ: hoàn cảnh ngặt nghèo, đau khổ nhưng vẫn luôn giữ được sức sống tiềm tàng. Điều đó đặc biệt được Tô Hoài diễn tả qua đoạn trích đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn cùng anh: “Lúc ấy trong nhà đã tối bưng… thì thào một tiếng “Đi ngay!”.... Qua đoạn trích, tư tưởng nhân đạo đầy tiến bộ của “cuốn từ điển sống nghề văn” này đã được thể hiện sâu sắc, sáng rõ.
Nhắc đến nhà văn Tô Hoài là nhắc đến một trong những cây đại thụ của nền văn học cận đại Việt Nam. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác trải dài hơn 60 năm, Tô Hoài đã cho ra gần 200 đầu sách khác nhau và gặt hái vô số thành công ở nhiều thể loại. Thế nhưng tiêu biểu hơn cả là những trang văn chân thực, sâu sắc của ông về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc qua tập “Truyện Tây Bắc”. Qua tập truyện, nhà văn đã khắc họa bức chân dung sinh động, xúc động về những nỗi đau thương, khổ cực mà nhân dân miền núi phải gánh chịu dưới ách áp bức nặng nề của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời tác phẩm cũng là lời ngợi ca, trân trọng ông dành cho tinh thần kiên cường, bất khuất của họ khi đã vùng lên đấu tranh, tham gia cả nước cùng kháng chiến. Tinh thần, ý niệm này của Tô Hoài được bộc lộ rõ nhất, sáng ngời nhất qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
“Vợ chồng A Phủ” được chắp bút năm 1952, đây là kết quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài đến các bản làng mới giải phóng và dành tám tháng cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi nơi đây. Với quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”. Ông đã chưng cất những “sự thật” xù xì, thô nhám nơi đây để tạo nên một các hình tượng đẹp đẽ, là đại diện cho tinh thần, quan niệm nhân sinh của mình, điển hình là nhân vật Mị, trung tâm của câu chuyện. Ẩn sau hình ảnh người con gái tài năng, xinh đẹp là sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ và tinh thần bất chấp những gông xiềng của hủ tục lạc hậu và ách áp bức, bóc lột của cường quyền- thần quyền.
Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện của Mị được bắt đầu bằng một nốt trầm: “dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Mới không lâu, Mị còn là một bông hoa ban thuần khiết, tươi mới, mới nở rộ của ngôi làng mà giờ đây Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận vợ của A Sử, con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ chỉ còn là những giọt nước mắt lăn dài, những mảnh hồi ức rời rạc, xa xăm, ngoài tầm với của Mị. Cô không chỉ đánh mất cuộc đời cũ của mình mà còn bị cha con nhà Pá Tra đày đọa cả thể xác và tinh thần: phải làm việc cả ngày lẫn đêm; bị giam hãm trong căn buồng kín mít; bị chồng đánh, bị phạt, bị trói,... Đến nỗi mà Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tâm hồn Mị, vốn thuộc về một cô gái trẻ trung, vui tươi, yêu đời, đã dần tan nát, vụn vỡ dưới bàn tay hung bạo, áp chế của cha con nhà thống lý.
Những tưởng cuộc đời của Mị đã chấm hết, tinh thần của Mị rồi cũng sẽ héo mòn dưới gông xiềng của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, ẩn sâu dưới vẻ lầm lũi, câm lặng đó vẫn le lói một ánh lửa của sức sống, của khát khao hạnh phúc, của mong muốn được tự do, luôn âm ỉ cháy chỉ chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Trái với các nhà văn cùng thời, dù viết về những tội ác của bọn thống trị và nỗi thống khổ của dân nghèo, Tô Hoài bằng ngòi bút của mình đã không để cho các nhân vật của mình chìm trong đau khổ, trong tuyệt vọng, bị cái ác, cái tàn độc dồn đến chân đường cùng, đến cái chết. Thay vào đó, với tình thương yêu và sự trân trọng sâu sắc ông dành cho người dân Tây Bắc, Tô Hoài đã khéo léo tận dụng tối đa nghệ thuật xây dựng, khai thác nội tâm nhân vật để nêu bật hành trình hồi sinh, lấy lại khát vọng sống của Mị. Đến đây độc giả chợt hiểu rằng: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam).
Sự chuyển biến trong tâm hồn Mị được đánh dấu bằng đêm hội mùa xuân. Sau những tháng ngày bị giày vò, bị bóc lột đến mức chai sạn, trơ lì, thế nhưng trái tim Mị vẫn không khỏi rung động trước vang âm của tiếng sáo, tiếng gọi bạn đánh pao từ trai gái Hồng Ngài. Cái xác không hồn” ngày ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” như bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, Mị bỗng thấy “thiết tha bồi hồi”, trái tim khô quạnh của cô được hồi sinh. Tiếng sáo trong trẻo đưa Mị tới bình rượu, tới hơi ấm của bếp sưởi, tới niềm tin vào một cuộc sống tươi đẹp hơn. Thế nhưng chẳng mấy chốc, hy vọng đó đã bị dập tắt bởi sợi dây trói của A Sử. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành, nhưng đốm lửa vẫn còn đó, chực chờ cơ hội bùng cháy và thiêu rụi màn đêm của gia đình thống lý. “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám chảy ngày mai” (Lỗ Tấn), ở đây Tô Hoài không chỉ báo hiệu trước cho độc giả về số phận của Mị, mà từ đó còn cho ta thêm hy vọng về sự hồi sinh, giải phóng hoàn toàn của Mị, đỉnh điểm là vào đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ.
Có lẽ tâm hồn Mị sẽ mãi là tảng băng lạnh lùng, vô cảm, Mị vẫn sẽ tiếp tục trơ lì trước cảnh tượng A Phủ bị trói nếu như không bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt lăn dài xuống khuôn mặt hốc hác, phờ phạc của A Phủ gợi lại cho Mị về chính mình vào đêm tình mùa xuân, về nỗi thống khổ, tuyệt vọng cùng khát khao vùng dậy, phản kháng mãnh liệt mà cả hai cùng sẻ chia. Bất chấp cái giá rét của cường quyền - thần quyền, dòng nước mắt đã kết nối hai tâm hồn đồng điệu, cho họ một chút hơi ấm giữa đêm đông lạnh lẽo, khắc nghiệt này. Trái tim Mị tan chảy khi tiếc thương thân phận chính mình, để rồi cháy rực lên khi Mị nghĩ về A Phủ, nghĩ về hoàn cảnh tương đồng giữa hai người. Nếu bát cháo hành đơn sơ của Thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo khởi cơn mê thuốc, khỏi sự tàn ác, đưa hắn quay trở lại với cuộc đời thiện lương thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức khát vọng tự do vốn bị vùi dập bấy lâu trong Mị, tiếp thêm cho cô sức mạnh để vùng lên phản kháng. Lớp xiềng xích tàn bạo của cha con nhà thống lý cũng phải khuất phục trước niềm căm phẫn sục sôi và sức sống mãnh liệt của Mị.
Ngọn lửa bếp đã tàn, thế nhưng một ngọn lửa mới đang trỗi dậy, xua tan bóng đêm của ngôi nhà thống lý và đánh dấu sự thay đổi trong tâm hồn Mị. Thay vì nhóm lửa lại theo thói quen, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm đã thúc đẩy Mị vượt qua nỗi sợ ban đầu để tiến đến hành động bột phát, mạnh bạo - Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Sau hàng năm trời phải sống im lặng, lủi thủi và cô độc như “con rùa nuôi trong xó cửa”, trái tim của cô cuối cùng đã lên tiếng, không chỉ vì bản thân mà còn vì A Phủ, vì những người dân Tây Bắc đang phải chịu sự bóc lột tàn bạo từ bọn thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Nỗi sợ xen lẫn sự quyết liệt mới mẻ này đã tạo thành hai tiếng thì thào “đi ngay” của Mị dành cho A Phủ.
Thật ý nghĩa khi Tô Hoài dành lời nói đầu tiên của Mị trong tác phẩm này, là lời nói thúc giục, giải thoát cho A Phủ. Chỉ hai chữ thôi nhưng câu nói ấy chứa đầy sự quyết liệt & sức sống mạnh mẽ sau những tháng ngày sống lầm lũi, câm lặng trong đày đọa của nhà thống lý Pá Tra. Hai chữ “đi ngay” không chỉ là tiếng thúc giục A Phủ mà còn là lời nói Mị dành cho chính mình để sau đó cô bỏ trốn cùng anh. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lý của Mị. Bằng một loạt câu văn ngắn cùng nhịp điệu gấp rút, dồn dập, nhà văn đã xuất sắc khắc họa chân dung người con gái Tây Bắc trong đêm đông giá rét với những vẻ đẹp phi thường. Cái đêm “định mệnh” ấy chính là nguồn động lực vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi nỗi lo sợ, mọi cường quyền và thần quyền để giải phóng cho chính mình và A Phủ, thay đổi cuộc sống của họ cho những ngày tươi đẹp hơn.
Nhà văn Sê-khốp từng có lời nhận xét rằng: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ không chỉ cần cẩn trọng với nét cọ hay những lớp màu mà họ còn phải thành tâm khắc họa, truyền tải những thông điệp thông điệp nhân đạo ý nghĩa nhất tới mọi người. Ở nhân vật Mị, bên cạnh những ngợi ca, những cảm thông, thương xót cho người con gái Tây Bắc ấy, tác giả còn lên tiếng tố cáo chế động phong kiến miền núi đã đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần của con người, dùng cường quyền và thần quyền để đẩy họ xuống những bùn đen của cuộc đời. Đặc biệt, trong quá trình tạo dựng nhân vật trung tâm, thay vì lựa chọn một hình tượng gần gũi, quen thuộc mà độc giả chúng ta thường thấy ở thôn quê, đồng bằng thì trái lại, ông đã miêu tả chân dung một cô gái vùng núi Tây Bắc. Tinh thần nhân đạo của Tô Hoài đã tỏa sáng ở sự đổi mới trong việc tìm kiếm đối tượng văn học,
và cả ở cách ông miêu tả diễn biến tâm trạng, hành động của Mị. Không dừng lại ở hành động phản kháng, tự phát của cô (cởi trói cho A Phủ) mà Tô Hoài còn mở ra một hướng đi mới cho cả hai - con đường giác ngộ lý tưởng Đảng, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để góp công giải phóng các dân tộc vùng Tây Bắc, tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Chính tư tưởng, tinh thần nhân đạo tiến bộ của Tô Hoài đã góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của ông trong làng văn chương Việt Nam.
Qua đoạn trích từ “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định được ngòi bút tài hoa cùng vị thế của mình trong thể loại truyện ngắn. Từ lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, đến vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán đặc sắc, riêng biệt của Tây Bắc, và đặc biệt là nghệ thuật xây dựng, miêu tả nội tâm nhân vật, tất cả đã tạo nên một cõi văn rất riêng mang tên Tô Hoài - vừa tinh tế, khéo léo, vừa đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Với sự xuất hiện của “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài không chỉ đứng từ phía ngoài quan sát mà còn hòa làm một với thế giới nội tâm của các nhân vật làng Hồng Ngài, để đồng cảm, để thấu hiểu, để yêu thương. Dòng chảy dạt dào của tình cảm, của sự trân trọng trìu mến và da diết ông dành cho người dân miền Tây Bắc đã kết tinh qua nhân vật Mị - người con gái phải chịu ách áp bức bóc lột nặng nề nhưng luôn mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.
Niềm ham sống cùng khát khao được tự do không chỉ hiện diện trong tâm hồn Mị mà còn có thể được tìm thấy ở nhiều sáng tác khác, trong đó phải kể đến nhân vật thị từ truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Hai nhà văn với những nét bút riêng biệt, thế nhưng cả Tô Hoài và Kim Lân đều đã xuất sắc khắc họa bức chân dung người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến. Mị đại diện cho dân tộc Tây Bắc dưới những xiềng xích của cường quyền - thần quyền, còn thị là hình mẫu tiêu biểu cho nhân dân nước nhà dưới nạn đói năm 1945. Họ đều là những người con gái bị bóc lột, bị áp bức, bị ách thống trị, đô hộ của bọn địa chủ - thực dân phong kiến dày vò đến độ chai sạn, tê liệt tinh thần, nội tâm ngày càng trống rỗng, cõi lòng cả hai cứ thế mà chết dần, chết mòn. Thế nhưng bất chấp những nghịch cảnh cuộc đời giáng xuống, cả Mị và thị đều nuôi dưỡng trong mình ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của niềm tin, của hy vọng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn, vào một buổi bình minh của độc lập, tự do trên khắp mọi miền đất nước.
Để nói về Mị, Tô Hoài từng có lời nhận xét: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.” Quả đúng như vậy, bằng ngòi bút tài năng và tình cảm chân thành, sâu đậm ông dành cho các dân tộc vùng núi, tác giả đã khắc họa bức chân dung Mị, từ đó gợi cho độc giả bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp người dân Tây Bắc những năm tháng kháng chiến. Dẫu Mị phải chịu đựng nhiều lớp xiềng xích - sự tàn bạo của A Sử, của gia đình nhà chồng cho đến những hủ tục lạc hậu - thế nhưng tinh thần bất khuất cùng tình yêu đời, yêu cuộc sống đã thắp sáng ngọn lửa của sức sống tiềm tàng bên trong chị, đặc biệt ở đêm đông năm đó. Ngọn lửa của sức sống thầm lặng vào đêm xuân đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh, ý chí để vùng lên đấu tranh, giành lại tự do không chỉ cho chính mình hay A Phủ mà còn biết bao người dân Tây Bắc khác đang phải chống chịu với ách xâm lược. Hình tượng Mị nói riêng và nhân dân vùng núi nói chung trong “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành điểm sáng trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đồng thời là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo và học tập để ngày mai chúng ta dựng xây một đất nước tươi đẹp, hạnh phúc, tiến bộ hơn.
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 2
Bất kì tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng bắt nguồn từ một trái tim dạt dào xúc cảm với đời của nhà cầm bút. Để từ trái tim một con người, văn phẩm neo đậu mãi trong lòng người đọc bao thế hệ. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số đó. Ân sâu nghĩa nặng Tô Hoài dành cho mảnh đất, con người Tây Bắc đã được gửi trọn vẹn qua thiên truyện ngắn xuất sắc nhất đời văn của ông. Những trang văn viết về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thực sự là những trang viết ấn tượng, đầy xúc động, đặc biệt qua hai đoạn trích: “Bây giờ Mị cũng không nói … váy hoa vắt ở phía trong vách” và “lúc ấy trong nhà đã tối bưng, … thì thào một tiếng “Đi ngay!”…”
Trần Đăng Khoa từng nhận xét, Tô Hoài như “một pho sách sống mà không học giả, viện sĩ nào có thể so sánh được”. Không chỉ là một người có sức sáng tạo dồi dào, ông còn có những hiểu biết sâu rộng về những vùng miền của đất nước sau nhiều chuyến đi thực tế. Tô Hoài đến với mảnh đất Tây Bắc năm 1952 trong chuyến đi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, văn nhân cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc để tích lũy vốn sống, để tăng tình cảm gắn bó, để tìm cảm hứng với đồng bào nơi đây. Và từ nơi ấy, “Vợ chồng A Phủ” ra đời. Câu chuyện viết về số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động trước Cách mạng. Nhưng bằng sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, họ đã vươn lên để bước sang một trang đời tươi sáng, hạnh phúc. Những trang văn viết về sự trỗi dậy sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ không chỉ thể hiện được sự tài hoa cùng ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài mà còn cho ta thấy khát vọng sống mãnh liệt của người lao động nghèo vùng cao.
Trước đó, Tô Hoài đã miêu tả Mị là một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, thổi sáo giỏi và có tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Không chỉ có vậy, cô còn là một người con gái hiếu thảo và yêu lao động. Thế nhưng, trớ trêu thay, do nhà nghèo, bố mẹ Mị khi lấy nhau phải vay tiền nhà thống lí Pá Tra, đến tận khi mẹ Mị mất rồi, bố già yếu mà vẫn chưa trả hết nợ. Cô bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, làm vợ của A Sử nhưng họ sống với nhau mà không có lòng với nhau. Và từ đây, chuỗi ngày địa ngục của Mị với thân phận con dâu gạt nợ mở ra. Mị không chỉ bị chà đạp về thể xác, mà còn phải chịu biết bao đau đớn về tinh thần. Ngày tháng trôi đi, sức sống tràn đầy của Mị ngày nào, giờ đây dường như đã ngủ yên, thay vào đó là sự lầm lũi, cam chịu. “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tày ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị sống mà mà như chỉ tồn tại. Thế nhưng, bằng ngòi bút nhân đạo, trái tim ấm nóng tình người của mình, Tô Hoài đã phát hiện ra: “Ở trong hình ảnh con rùa lùi lũi ấy, còn có một con người”. Sự biến chuyển về tâm lí của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả thành công, từ đó đã làm sáng lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của cô trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Đoạn trích thứ nhất đã khắc họa một cô Mị đang đắm chìm trong hạnh phúc, đang nghĩ về những cuộc chơi xuân, để từ đó có những hành động mà lần đầu xuất hiện kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lí. Trạng ngữ chỉ thời gian “bây giờ” nói đến thời điểm hiện tại, khi Mị đang ngược về quá khứ theo men say của rượu và tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Trước đó, bằng ngòi bút tả thực cùng sự am hiểu về phong tục tập quán các vùng miền, Tô Hoài đã khắc họa chân thực bức tranh mùa xuân về trên Hồng Ngài với màu sắc rực rỡ, sự no đủ và những hoạt động của đồng bào nơi đây. Thế nhưng, trái ngược với bức tranh đầy sức sống đó, cô Mị lại thờ ơ, vô cảm, dường như không quan tâm đến bất kì thứ gì xung quanh. Năm nay, cô lén uống rượu, cô uống “ừng ực từng bát” và như một thói quen, cô đi thẳng vào căn buồng kín mít với một lỗ vuông bé bằng bàn tay của mình. Mị ngồi trên giường, không làm gì cả. Có thể nói, từ khi bước chân vào nhà thống lí, vào căn buồng được coi như thứ ngục thất trần gian này, Mị dường như chỉ tồn tại với một cái xác không hồn, làm việc theo bản năng, chứ không hề có cho mình những xúc cảm riêng. Nhưng đêm nay lại khác, cô ngồi trên giường nhưng lòng cô đi theo men rượu, đi theo tiếng sáo để về với một thời quá khứ tươi đẹp. Mị nhận ra mình còn trẻ, còn nhiều khát vọng: “Mị muốn đi chơi”. Việc nhớ về quá khứ đã làm sống dậy một cô Mị trước khi vào làm dâu nhà thống lí, làm dấy lên sức sống tiềm tàng trong cô. Từ đó, Mị có những hành động của một con người đang thực sự sống, của một cô gái đang độ tuổi tươi đẹp.
“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đèn”. Câu văn mộc mạc, nhịp nhàng và chậm rãi nhưng lại gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mới lạ. Không cần đi tìm, Mị một mạch tiến đến góc nhà, thắp lên cây đèn đã lâu chưa được cô ngó ngàng tới. Vậy là cây đèn vẫn luôn ở đó như biết trước rằng, rồi sẽ lại có một ngày nó được thắp sáng lên bởi bàn tay của Mị. Mị biết vị trí của cây đèn rất rõ nhưng tại sao trước đó, cô lại không thắp lên? Đó hẳn là vì sự chai lì, sự vô cảm của Mị với đời, khiến cô không còn quan tâm đến việc căn phòng sáng hay tối nữa. Cho đến hôm nay, khi sức sống căng tràn nơi nơi trái tim Mị, cô “xắn một miếng mỡ” bỏ vào đèn làm bừng sáng cho gian phòng vốn tăm tối. Hành động thắp đèn của Mị không chỉ là thắp sáng căn phòng, mà còn là thắp lên ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong lòng cô nữa.
Căn phòng giờ đây không còn mang dáng vẻ của ngục thất trần gian, dáng vẻ của “nhà mồ chôn sống” nữa mà nó đã trở thành không gian sống, một không gian thực thụ của con người, dành cho con người. Chỉ bằng một hành động và câu văn nhỏ bé vậy thôi nhưng Tô Hoài đã cho người đọc thấy sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ bên trong Mị.
Không chỉ qua hành động thắp đèn, sức sống của Mị còn được hiện lên qua hành động “cuốn lại tóc, với lấy cái váy hoa”. Tiếng sáo rập rờn trong đầu như đưa Mị đến gần với những cuộc vui của ngày trước. Khát khao được vui tươi, được đi chơi của Mị dâng trào một cách mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cô để ý, chăm chút lại mái tóc thanh xuân của mình, thay một cái váy hoa, chuẩn bị đi chơi. Trái tim cô đang rạo rực với ý nghĩ được đi chơi thì A Sử về. Y cùng với sợi dây trói đã chặn đứng khát vọng của cô. Hạnh phúc bỗng vụt tắt, cô lại trở về thành cô Mị vô cảm, thờ ơ với cuộc đời. Đêm tình mùa xuân khép lại, dù chưa có những hành động bứt phá nhưng có thể thấy, lớp băng phủ quanh trái tim của Mị đã dần xuất hiện vết nứt, chỉ chờ một sự tác động nữa là lớp băng ấy sẽ tan biến. Cô Mị với khát vọng sống mãnh liệt sẽ hoàn toàn phục sinh. Và tác nhân ấy sẽ xuất hiện trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Chính nhờ giọt nước mắt của A Phủ, trong Mị đã trỗi dậy lòng thương mình, tình thương đồng loại để từ đó có những hành động bất ngờ, táo bạo, tất yếu. “Lúc ấy” là giữa đêm đông khuya khoắt, lạnh lẽo. Dù không gian bên ngoài giá lạnh, nhưng dường như trái tim của Mị lại ấm nóng hơn bao giờ hết. Phải chăng, giọt nước mắt của A Phủ đã chảy vào lòng Mị, làm tan đi cái lạnh giá nơi trái tim cô. Ngọn lửa Mị vẫn ngồi hơ tay mỗi đêm đã lụi tàn, bóng tối bao trùm cả không gian, nuốt chửng Mị. Thế nhưng, thay vì nhóm lửa lại, Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Hành động của Mị chỉ là “rón rén”, vì đây chỉ là hành động bộc phát, bất ngờ, không có sự chuẩn bị từ trước. Mị “rón rén” vị sợ bị phát hiện, sợ A Sử phát hiện. Nhưng cắt dây trói xong, chính bản thân cô cũng hoảng hốt trước hành động của chính mình. “Mị hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay””. Có thể nói, cô hốt hoảng vì cô chưa từng nghĩ, mình lại có thể làm được những hành động như thế này. Trước kia, cô chỉ bằng lòng, yên phận sống một cuộc đời “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, sống mà chỉ như là tồn tại. Cô nghĩ rằng, cuộc đời này sống làm người nhà thống lí, chết làm ma nhà thống lí, rồi cũng sẽ có một ngày rũ xương ở cái nơi địa ngục trần gian này thôi, chứ cô chưa bao giờ nghĩ rằng, mình lại có thể quyết liệt đến vậy. Tiếng thì thào của Mị như một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, làm điểm sáng cho đoạn trích này. Trong cả tác phẩm, dù là nhân vật chính, nhưng Mị lại chỉ có đúng ba câu nói: một câu nói với cha và hai câu nói với A Phủ. Và tiếng thì thào “đi ngay” của Mị nói với A Phủ là tiếng nói được cất lên từ đáy lòng Mị sau rất nhiều năm sống câm lặng ở ngôi nhà này. Nhưng cũng từ đó, ta thấy được tình thương người lớn hơn thương thân của Mị, đặc biệt thấy được cả sức sống tiềm tàng nơi cô. Hai tiếng “đi ngay” ấy là lời của Mị nói với A phủ, nhưng dường như cũng là lời nói với chính mình để sau đó, cô cũng chạy đi theo A Phủ. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị. Các câu văn ngắn, nhiều dấu phẩy tạo nên giọng văn gấp rút như men theo những chuyển biến tâm lí tinh vi ở Mị. Tác giả dường như đã hóa thân vào nhân vật để lột tả được hết những tâm trạng của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ.
Hai đoạn trích đã khắc họa được những nét diễn biến tâm lý phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ, từ đó người đọc thấy sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người Mị, trước những cơn gió xúc tác nó lại bùng lên mạnh mẽ. Ở đoạn trích đầu tiên, ta thấy hiện ra một cô Mị còn trẻ, vẫn khao khát được đi chơi, chìm đắm trong cuộc chơi, sức sống trong cô lúc này trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở đoạn trích thứ hai, một cô Mị với tình thương người, tình yêu thương đồng loại (là A Phủ) hiện lên đánh dấu sự trở lại hoàn toàn của Mị. Con người cô quay lại trở lại với những gì đẹp đẽ nhất, căng tràn nhựa sống và khát khao tự do nhất – như những ngày chưa bước chân vào nhà thống lí Pá Tra. Như thế, qua hai đoạn trích trên, ta thấy Mị có những hành động mà trước đây cô chưa từng làm và ngay cả chính cô cũng không không nghĩ rằng mình sẽ làm như vậy. Đó chính là biểu hiện rõ nét nhất của ngọn lửa sức sống tiềm tàng đang bùng cháy trong Mị. Ngọn lửa đó chưa bao giờ bị dập tắt, nó chỉ bị những thế lực tàn ác của thần quyền và cường quyền làm yếu đi, chờ đợi ngày được bùng cháy. Từ đây, ta thấy được thông điệp mà Tô Hoài gửi gắm qua truyện ngắn này: sức sống, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người là bất diệt, dẫu có bị các thế lực bóng tối chèn ép, đẩy đến bi kịch đến như thế nào cũng sẽ vẫn âm ỉ cháy, và chắc chắn sẽ có một ngày bùng lên mãnh liệt.
Sự thành công của thiên truyện Vợ chồng A Phủ không chỉ nằm ở nội dung mà còn nằm ở nghệ thuật. Với lối kể chuyện lôi cuốn, các tình tiết được dẫn dắt khéo léo, Tô Hoài dễ dàng đưa người đọc đi men theo dòng chảy tâm lí của nhân vật Mị đầy tự nhiên, không gượng ép. Ngôn ngữ phong phú, giàu sức tạo hình mang đậm màu sắc miền núi cùng hàng loạt các danh từ, động từ mạnh đã góp phần khắc họa tâm trạng của nhân vật Mị. Đặc biệt, lời văn nửa trực tiếp, bút pháp biện chứng tâm hồn tinh tế, điêu luyện đã giúp nhà văn đưa người đọc đến gần hơn với những xúc cảm trong lòng Mị, hòa vào Mị để thấu hiểu, để đồng cảm. Từ đó, làm ngời sáng lên một cô Mị với nội tâm sâu sắc, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và trái tim nhân hậu, giàu yêu thương.
Tô Hoài từng có lần tâm sự về truyện ngắn của mình như thế này: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. Đọc những lời chia sẻ ấy của Tô Hoài tôi mới thấy rõ hơn cái tình mang nặng của ông với mảnh đất và con người Tây Bắc. Tô Hoài yêu và hiểu nhân vật của mình nên ông đi vào từng dòng tâm trạng, cử chỉ, hành động và lời nói của họ để phát hiện bao hòn ngọc còn ẩn giấu trong tim những kiếp cùng cực ấy. Hai dòng tâm trạng trên của Mị nói riêng và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói chung đã thể hiện tình yêu thương nhiều khi đến quặn thắt của Tô Hoài. Văn nhân đau từng cơn trước những lần Mị bị đọa đày trong những phận trâu ngựa, trong cơn đòn roi hay nơi ngục thất tinh thần. Ông căm phẫn làm sao trước bọn chúa đất miền núi với cường quyền và thần quyền nặng nề bám riết lấy con người không buông, khiến người ta cứ sống kiếp mòn đi, thơ ơ với mọi sự. Nhưng điều người đọc thấy trân quý biết bao ấy là tấm lòng cất công đi tìm hòn than nóng bỏng sau lớp tro tàn ở Mị. Mị với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt chẳng bao giờ nguôi ngoai. Cũng vì lẽ đó văn nhân muốn mở ra cho nhân vật một con đường giải thoát, muốn đưa cho con người ra ánh sáng tự do. Mị cởi trói cho A Phủ nhưng cô cũng cởi trói cho chính mình. Rồi hai mảnh đời ấy sẽ cuốn vào nhau và tiến tới con đường chân lí – con đường cách mạng. Đọc những dòng văn đẹp ấy của “tấm lòng vàng” tôi mới trăn trở làm sao kiếp người bị vùi vào tăm tối. Nhưng hơn hết tôi biết Tô Hoài muốn nhắn gửi chúng ta, con người dù trong hoàn cảnh nào vẫn ẩn khuất những khát vọng đẹp. Hãy cứu đi, cứu lấy con người khỏi chốn tối tăm khi còn có thể!
Sê – khốp từng nói: “Nhà văn trước hết phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Nếu không có một trái tim thương người, đồng cảm với những số phận khổ đau, bị các thế lực tàn ác chèn ép, đày đọa, Tô Hoài đã không thể viết nên những trang văn xuất sắc và cảm động như thế. Và nếu không có một ngòi bút nhân đạo, Tô Hoài đã không thể nào phát hiện được sức sống mãnh liệt vẫn luôn ẩn sâu trong Mị cũng như những người dân lao động ở miền dẻo cao Tây Bắc. Một tấm lòng đẹp đã tỏa ngát trong vườn văn Việt Nam, một sức sống đẹp đã nảy nở trong kho tàng văn học dân tộc. Và từ đó một nhà văn cùng những trang viết xuất sắc ra đời. Người ta sẽ khó mà quên những con chữ hồn nhiên tuổi ấu thơ trong vương quốc dế mèn, cũng không thấy được dòng văn đập rộn ràng không khí thời đại trong “Chuyện cũ Hà Nội” hay những trang văn xanh đời trong “Vợ chồng A Phủ”. Dẫu là khi bé thơ hay đã trưởng thành người ta vẫn muốn đến với ông – đi trên con thuyền chở nặng hồn văn Tô Hoài.
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 3
Tô Hoài là cây văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông có vốn sống, sự hiểu biết sâu sắc về con người và phong tục văn hóa Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài khi viết về cuộc đời và số phận của hai vợ chồng người Mông dưới ách phong kiến ở miền núi trước năm 1945. Tác phẩm không chỉ nhằm phản ánh hiện thực cuộc sống của người nghèo mà con là giá trị nhân văn sâu sắc khi hướng đến những giá trị tốt đẹp, sức sống mãnh liệt bên trong con người, điều này được thể hiện rõ qua chi tiết Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.
Nàng từng là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, được nhiều trai làng theo đuổi, “những chàng trai về động trước”. Xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời và yêu tự do, lẽ ra tôi xứng đáng được sống một cuộc đời hạnh phúc nhưng cuộc đời tôi là một chuỗi đau khổ, bi kịch khi bị ép làm con dâu gạt nợ cho cha.
Từ khi về làm dâu để trả nợ cho nhà thống lý, Mị như con rùa bị nhốt vào xó, không kịp phản ứng, sống cuộc đời lang thang. Sức sống trong Mị bị tê liệt nhưng không bị dập tắt hoàn toàn bởi chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua, sức sống ấy bùng cháy dữ dội hơn bao giờ hết. Đêm tình xuân, sức sống trong tôi trỗi dậy, nhưng không đủ để Mị tự cứu mình. Mãi đến đêm cắt dây cứu A Phủ, sức sống tiềm ẩn mới thực sự được đánh thức.
Trong đêm, với tay thổi lửa, Mị đã chứng kiến cảnh A Phủ bị trói dưới sân nhà thống lí Pá Tra. Cảnh ràng buộc những người thân trong gia đình đã trở nên quá quen thuộc khiến tâm hồn tê liệt của Mị vô cảm, rơi nước mắt trước sự xuất hiện của A Phủ. Khi ấy, giọt nước mắt của A Phủ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và làm cho sức sống trong Mị bùng cháy mãnh liệt.
Nhìn thấy cảnh ngộ của A Phủ, tôi nhớ lại ký ức đau buồn khi bị A Shi trói buộc. Mị dần thức tỉnh từ trong vô thức phần ý thức đã bị tê liệt bấy lâu nay, tôi ý thức rõ hơn bao giờ hết tội ác của hai cha con “chúng trói người vào chỗ chết”. Cảm thương cho số phận bất hạnh của A Phủ và bất bình trước tội ác của hai cha con, Mị đã có một hành động táo bạo khi cắt dây cởi trói cho A Phủ.
Phải thấy rằng hành động này rất dứt khoát, táo bạo, thể hiện sức sống mãnh liệt đang thức tỉnh trong tôi bởi khi tôi cắt dây thừng nghĩa là tôi đã chấp nhận đương đầu với không chỉ cường quyền mà còn cả thần quyền. Sau khi cứu người, Mị bỗng sợ hãi chạy theo A Phủ, đây cũng là lúc sức sống và niềm đam mê sống thể hiện rõ nhất và cũng chính tình yêu, khát vọng sống đã cứu sống A Phủ và chính bản thân mình.
Chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ không chỉ lên án sâu sắc các thế lực phong kiến ở miền núi đã tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc của con người mà còn thể hiện tấm lòng đồng cảm của nhà văn Tô Hoài đối với nhân dân những nạn nhân nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương trong xã hội ấy.
Miêu tả sự bừng tỉnh sức sống trong tôi, nhà văn Tô Hoài cũng chỉ ra con đường để những người dân nghèo tự giải thoát cho cuộc sống của mình, đó là dũng cảm đứng lên chống cường quyền, thần quyền, tham gia cách mạng, hướng tới cuộc sống tốt đẹp. Đây là những thông điệp mới của Tô Hoài được thể hiện trong tác phẩm này.
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 4
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.
Trước tiên, chúng ta cần khái quát lại nội dung của truyện. “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính – Mị và A Phủ. Đó là hai con người trẻ trung, giàu sức sống, yêu đời và tài năng nhưng chẳng may lại trở thành nô lệ, mang lấy kiếp trâu ngựa, bị áp bức bởi bọn thực dân phong kiến mà điển hình ở đây là gia đình thống lý Pá Tra. Mị trước khi làm dâu là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, hiếu thảo “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, tài năng “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Còn A Phủ tuy chịu mất mát từ nhỏ “Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Còn sót lại một mình A Phủ” nhưng lại có bản lĩnh hơn người “không chịu ở dưới cánh đồng thấp”. Bên cạnh đó, A Phủ còn là chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi “đã biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”, “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”…. Mị vì món nợ gia đình mà trở thành con dâu gạt nợ. A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi cuộc đời tươi trẻ của mình dưới gầm trời nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tỉnh lại quá khứ tươi đẹp khi xưa nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị dửng dưng, vô cảm. Dần dần, lòng thương người trỗi dậy, Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả một cách sinh động, tài hoa.
Trước đêm cởi trói cho A Phủ, Mị là cô gái vô cảm. Như chúng ta đã biết, sau khi về làm dâu gạt nợ, thực chất là con ở không công nhà thống lý, Mị bị đày đoạt về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài đã nhiều lần so sánh hình ảnh Mị với loài vật không hơn không kém “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”… Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi ngày trước đến mức Mị chẳng còn màng đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chi Mị còn muốn tự tử, phải chi Mị còn đau đớn bởi sự bất công, đày đọa của cuộc đời này thì ít ra, ta còn thấy Mị còn sót lại chút lí tưởng sống. Đằng này, Mị gần như từ bỏ, gần như buông xuôi, gần như chấp nhận sự phi lí, bất nhân của cuộc đời như một lẽ thường hằng. Đến đêm tình mùa xuân đến, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước “ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Ý thức về sự sống trỗi dậy nhưng có vẻ còn quá yếu ớt để đòi hỏi một sự giải thoát, một cuộc cách mạng.
Gặp A Phủ bị gia đình thống lý Pá Tra trừng phạt tàn nhẫn – trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Than ôi! Còn sự nhẫn tâm nào hơn! Mị từ cô gái vui vẻ, yêu đời nay trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.
Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ. Mị đặt ra nghi vấn cho kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy. Mị nhớ đến đời mình như một điều tất yếu, một sự liên hệ giữa những người cùng gánh lấy cuộc đời bi kịch, cùng là những con người thấp cổ bé họng. Họ đã cam chịu bấy lâu nay, đã bị giày xéo thể xác lẫn linh hồn.
Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ “Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta cho đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi”, “chúng nó thật độc ác”, “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, “người kia việc gì mà phải chết thế”…. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong kiếp đọa đày. Từ đó, lòng thương người trong đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.
Thông qua ba quá trình diễn biến tâm lí cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện được tài năng của bản thân thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Từ ngoại hình đến tính cách, chân dung Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, người đọc còn được thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.
Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lí tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung.
Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ - Mẫu 5
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy. Nhà văn mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm sâu sắc cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập “Truyện Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà thống lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần trỗi dậy mạnh mẽ. Những sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về.
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người: “Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.
Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.
Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác phẩm. Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ đã cởi nút thắt cho bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu).
..........Xem chi tiết tại file tải dưới đây............