Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa 4 Dàn ý + 22 mẫu người đàn bà hàng chài
Phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu mang đến 4 gợi ý cách viết kèm theo 22 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích đánh giá nhân vật và thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc.
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài chúng ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Để hiểu rõ hơn về người đàn bà hàng chài mời các bạn theo dõi 22 bài văn mẫu dưới đây. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm phân tích nhân vật Phùng, phân tích Chiếc thuyền ngoài xa.
TOP 22 bài phân tích Người đàn bà hàng chài hay nhất
- Sơ đồ tư duy người đàn bà hàng chài
- Dàn ý phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
- Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà - Mẫu 1
- Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 2
- Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 3
- Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 4
- Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 5
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 6
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 7
- Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 8
- Phân tích người đàn bà làng chài - Mẫu 9
- Phân tích người đàn bà làng chài - Mẫu 10
- Phân tích về nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 11
Sơ đồ tư duy người đàn bà hàng chài
Dàn ý phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
I. Mở bài
- Giới thiệu về Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
- Dẫn dắt, giới thiệu về nhân vật người đàn bà hàng chài.
II. Thân bài
1. Tên tuổi
- Không có tên, được gọi một cách phiếm chỉ là “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển”, “người đàn bà” hay “mụ”.
- Trạc ngoài bốn mươi tuổi.
=> Chỉ là một trong số những người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
2. Ngoại hình
- Thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
- Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ.
- Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…
=> Hình ảnh một người phụ nữ xấu xí, lam lũ và khổ cực.
3. Tính cách
- Một người phụ nữ hiền lành, nhút nhát: Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.
- Một người phụ nữ từng trải: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”
- Một người phụ nữ giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”.
- Một người phụ nữ giàu tình yêu thương: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”...
III. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp của người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Xem thêm: Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài
Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà - Mẫu 1
Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Người đàn bà hàng chài là nhân vật đặc sắc nhất của truyện.⠀⠀⠀⠀⠀
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự − triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.⠀⠀⠀⠀⠀⠀
Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.⠀⠀⠀⠀⠀⠀
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.
Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bản về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chỉ là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.
Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.⠀⠀⠀
Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀
Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.
(Tố Hữu)
Bằng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại h́nh và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀⠀
Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".
Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 2
Khi chắp bút viết lên những đứa con tinh thần của mình, mỗi nhà văn lại cho thấy những quan điểm nghệ thuật rất khác nhau nhưng cũng có những điểm giao thoa và đồng nhất. Theo Thạch Lam: “Đối với tôi, văn chương không phải cách đem đến cho người đọc thoát ly quên, trái lại văn chương thứ khí giới cao đắc lực mà có, để vừa tố cáo vừa thay đổi giới giả dối tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm phong phú hơn”. Cùng quan điểm tương tự, Tô Hoài khẳng định: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Như vậy, các nhà văn xoay quanh các hiện tượng xã hội, lật trở các mặt để thấy rõ những khía cạnh khác nhau, cũng như Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng, thấy kệ khi con người bị đày đọa, và công việc đó phải là phản ứng tự nhiên của nhà văn”. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm như thế và nhiều hơn thế. Truyện ngắn đã có những “phản ứng tự nhiên” của nhà văn trước xã hội, đồng thời để lại nhiều ấn tượng với bạn đọc là hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài được thể hiện qua trích đoạn: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho... chúng nó được ăn no...” Từ hình ảnh nhân vật ấy, mỗi người trong chúng ta cũng tự rút ra được cho mình những nhận thức mới mẻ về cuộc sống.
Nguyễn Minh Châu - một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, người nghệ sĩ ấy luôn trăn trở về sứ mệnh của một nhà văn, mang trong mình một khát khao tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, để nâng đỡ và yêu thương con người nhiều hơn. Tất cả những mong ước ấy được trao gửi trong “Chiếc thuyền ngoài xa” - một tác phẩm được sáng tác năm 1983, khi đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì độc lập. Thế nhưng, cuộc sống thời bình vẫn còn ở đó với biết bao vấn đề cần đặt ra. Đằng sau cái vẻ đẹp lộng lẫy của một đất nước bước vào hòa bình ấy là cuộc sống con người còn nhiều khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy, tác phẩm vừa là hồi chuông cảnh báo đồng thời mở đường cho cảm hứng đời tư, thế sự - một xu hướng chung cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khi gấp lại những trang văn của “Chiếc thuyền ngoài xa” người đọc không thể nào thôi thổn thức với trích đoạn khi người đàn bà hàng chài được tỏ bày về niềm hạnh phúc chắt chiu của mình.
Nhìn lại về hành trình sáng tác bền bỉ của Nguyễn Minh Châu, có thể thấy trong Các tác phẩm truyện ngắn của mình, Nguyễn Minh Châu thường xây dựng những tình huống truyện éo le, nghịch lí. Bởi nhà văn muốn thông qua những tình huống đó để nhân vật có cơ hội khám phá hiện thực cuộc sống vốn luôn chứa đầy những nghịch lí, đầy phức tạp, bí ẩn, từ đó đi đến khẳng định về “cuộc đời đa sự, con người đa đoan”. Người đàn bà hàng chài là một trong số những nhân vật đã được nhà văn đặt để vào tình huống éo le, nghịch lí như thế trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nhân vật ấy xuất hiện qua điểm nhìn từ người nghệ sĩ Phùng không có một cái tên, chỉ thường được gọi với đặc điểm nổi bật nhất của chị - người đàn bà hàng chài. Cách gọi ấy khiến chúng ta hình dung ra sự phổ biến của nhân vật trong cuộc sống, những con người như thế chúng ta có thể dễ dàng gặp ở khắp nơi. Chị trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt. Nhìn kỹ một chút thấy khuôn mặt mệt mỏi, tái nhợt, dáng đi chậm chạp như bà già. Người đàn bà ấy mặc quần áo rách rưới, tấm lưng áo bạc phếch, ướt sũng. Có thể thấy, vóc dáng, diện mạo ấy đã hằn in những nhọc nhằn lam lũ nghèo túng của người đàn bà hàng chài, đồng thời hé lộ một số phận khổ đau. Đã vậy, người đàn bà ấy lại xuất hiện trong một tình huống éo le, nghịch lý. Khi bị chồng đánh trên bãi cát, người đàn bà ấy không van xin, không né tránh, không chống cự, “định đưa tay lên búi lại tóc rồi lại buông thõng hai tay xuống”. Lời cầu xin duy nhất là xin chồng đưa mình lên bờ để đánh - khiến cả Phùng và Đẩu, thậm trí là bạn đọc phải cùng phải thốt lên “Thật không thể nào hiểu được”. Để rồi khi nhận được sự giúp đỡ từ Phùng và Đẩu, có thể nhờ luật pháp can thiệp để thoát khỏi lão chồng độc ác, vũ phu, chị ta hoảng hốt quỳ sụp xuống van xin rối rít “Con lạy quý tòa, quý tòa phạt con cũng được, bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” - khiến Phùng thấy thất vọng, ngột ngạt “căn phòng đang lộng gió biển như bị rút cạn hết không khí”. Bao nhiêu những sự khó hiểu đến khó tin ấy đều đã được chị lý giải tường tận để rồi Phùng và Đẩu - đặc biệt là bạn đọc hiểu rõ về những quyết định nghịch lí của chị.
Không gian của trích đoạn là nơi toà án huyện – nơi đưa ra những phán quyết với từng cá nhân, nơi con người ta sẽ nhìn nhận sự việc trên góc độ pháp luật, công bằng. Khi được gọi lên tòa án để giải quyết việc gia đình, ban đầu chị còn rụt rè, lúng túng, sợ sệt, vái lia lịa, xưng hô lễ phép “quý toà, con” ở chốn công đường và ra sức lạy xin. Sau đó chánh án Đẩu khuyên chị li hôn để thoát khỏi nạn bạo hành thì người đàn bà ấy – khi đã hiểu được tấm lòng của những con người tốt bụng kia đã hoàn toàn thay đổi tư thế và lối xưng hô “tôi, các chú” rất thân mật, lí lẽ cũng linh hoạt hơn, chủ động bày tỏ ý kiến. Từ đó, biết bao nhiêu những lí do thấu tình đạt lí được đưa ra. Tuy thất học quê mùa, không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực sự rất sâu sắc khi nhìn “suốt cả cuộc đời mình” về cuộc sống, về con người, về thiên chức làm mẹ: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.” Đến đây, bạn đọc hiểu thêm một lý do vì sao người phụ nữ này lại luôn lựa chọn im lặng trước đòn roi của chồng, là bởi vì chị hiểu trên mỗi con thuyền cần có một người đàn ông khỏe mạnh để chèo chống khi biển động, sóng to – anh ta là trụ cột cho cả gia đình trên con thuyền nhỏ bé. Trên những con thuyền của các gia đình làng chài từ trước đến giờ vẫn thế, gia đình của chị cũng không phải là ngoại lệ. Đã vậy, người đàn bà ấy còn hiểu rõ được thiên chức của mình, chị không chỉ là một người vợ, chị còn là mẹ - mẹ của “đặng một sắp con”, chị hiểu thiên chức thiêng liêng mình có được và luôn giữ một tư duy rằng muốn nuôi được những đứa con khôn lớn thì phải khổ, đã là mẹ là phải khổ. Chị lựa chọn điều ấy, không phải coi nó như gánh nặng, đối với người đàn bà này “đặng một sắp con” ấy chính là động lực để chị chịu đựng, để chị không oán than cuộc đời có nhiều cái bất công. Có thể thấy, Nguyễn Minh Châu khi xây dựng về nhân vật người đàn bà hàng chài đã đặt để nhân vật của mình trong những sự lựa chọn - Sống ở trên bờ hay sống ở trên thuyền; Sống vì mình hay vì con; Sống cam chịu nhẫn nhục hay đấu tranh phản kháng lại bạo lực từ chồng. Và sự lựa chọn của chị luôn được đặt trong suy nghĩ, góc nhìn tự chủ, chấp nhận cuộc sống hiện tại, không than vãn, bao dung và luôn nghĩ cho người khác. Và bởi vì người đàn bà ấy chính là “con chiên ngoan đạo” của một thứ chủ nghĩa mang tên tình mẫu tử, thế nên ở bất cứ thời điểm nào, chị cũng mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho những đứa con của mình. Chị nhận thức rõ số phận của mình là một người đàn bà miền biển thế nên: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!” Câu nói ấy giống như một lời khẳng định – một lời khẳng định về sự xác định trách nhiệm đối với con cái, cũng là một lời khẳng định thể hiện lòng yêu thương vô bờ của người mẹ dành cho những đứa con bé bỏng. Người đàn bà thất học ấy, cũng đã từng lo lắng cho việc những đứa trẻ nhìn thấy mẹ bị đánh sẽ không có một tuổi thơ bình yên nên đã gửi con về ông bà ngoại. Thế nhưng, đến khi đứa con của mình vẫn phải chứng kiến cảnh đó và có những sự phản kháng với người cha, chị đã khóc vì đau đớn. Đó không chỉ là nỗi đau đớn về thể xác mà còn là nỗi giày vò về tinh thần, bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, chị lo lắng như vậy niềm tin trong trẻo trẻ thơ bị tan vỡ. Đến lúc này đây thì cả hai người đàn ông hiểu ra rằng mọi ý nghĩ theo kiểu yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng.
Và để rồi vẫn là một lời cầu xin đừng bắt người đàn bà ấy bỏ chồng cùng với một nụ cười chắt chiu từ biết bao nước mắt: “Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.” Người đàn bà ấy vẫn luôn tự nhận mình là người thất học, lạc hậu, không hiểu biết nhiều. Vẫn là sự tự trọng ta thường nhìn thấy nơi người đàn bà này trong suốt cả câu chuyện trên toà án huyện. Và rồi, điều khiến bạn đọc bất ngờ đó chính là nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt xấu xí, lỗ rỗ đi kèm với lời tâm sự về những giây phút hoà thuận, vui vẻ của gia đình. Không thể thay đổi được những điều đang xảy đến trong hiện thực cuộc sống mình đối mặt, người đàn bà ấy lựa chọn thay đổi thái độ tiếp nhận, hành vi tiếp nhận, cảm xúc tiếp nhận. Chị chắt chiu những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của cả gia đình, biến nó thành động lực để mình tiếp tục đi qua những tháng ngày tăm tối. Ở người đàn bà hàng chài ta không chỉ nhìn thấy tình yêu thương con vô bờ bến mà ở đó còn là một thái độ sống tích cực, lạc quan. Vì chính chị mới là người hiểu rõ nhất về những quyết định của mình, chị luôn chọn điểm nhìn về người chồng của mình với góc nhìn thấu hiểu, cảm thông, đó là góc nhìn cứu giúp, nâng đỡ, chị cũng là người nhận thức rõ nhất về số phận của chị, những gì chị có thế nên thoạt đầu, ta có thể nghĩ quyết định ấy thật ngu ngốc từ một người đàn bà thất học, để rồi khi đào sâu tìm hiểu ta mới nhận ra được sự thấu tình, đạt lí trong suy nghĩ và hành động của chị.
Khi được hỏi về khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc đời mình, chị không ngần ngại mà đáp lời: “- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...” Ồ, thì ra hạnh phúc của một người mẹ nghèo chỉ giản đơn như thế, là việc nhìn những đứa con của mình được ăn no. Mặc dù với chị bất hạnh là những thứ luôn hiện diện, luôn có sẵn nhưng chị lại luôn tích cực hướng điểm nhìn của mình về những điều hạnh phúc dẫu rằng nhỏ bé, hiếm hoi, phải chắt chiu từng chút. Chính điều này đã giúp chị lựa chọn việc ở lại, chị bám vào những niềm hạnh phúc giản đơn ấy, bé nhỏ ấy để chăm sóc cho trái tim của mình. Vẻ đẹp của tình mẫu tử qua những lời bộc bạch của chị nhờ vậy mà sáng lấp lánh trong đôi mắt bạn đọc. Đến bây giờ, thông qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta mới hiểu được rằng: “Văn học nghệ thuật chân chính luôn đặt việc nhân đạo hóa con người vào vị trí trung tâm. Là tiếng nói của tình cảm, văn chương lấy hình tượng đậm chất cảm xúc làm phương tiện để đánh thức và nhân lên cảm xúc nhân văn nên phải lấy con người làm gốc. Trước nay một tác phẩm giá trị luôn hướng con người đến cái cao cả, cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Tình yêu con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu cũng là nguồn cảm hứng căn bản nhất thúc đẩy các nhà văn miêu tả, phản ánh, sáng tạo.”
Những lời giãi bày ấy cho mỗi bạn đọc chúng ta hiểu thêm về người đàn bà hàng chài. Với những lời bộc bạch thật tình của người phụ nữ đáng thương đó ta mới có cơ hội thấy rõ nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con. Ta cũng chợt nhận ra yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Và đặc biệt hơn cả, trong khổ đau dài đằng đẵng ấy, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng. Từ những điều ấy giúp ta hiểu thêm về cuộc sống kỳ diệu này. Cuộc sống luôn tiềm ẩn những vấn đề, những nghịch lí không bao giờ có thể giải thích, cắt nghĩa rõ ràng được, phải ở trong từng cảnh ngộ nhất định ta mới thấm thía được cái đa sự của cuộc đời và cái đa đoan của con người. Tất cả đã giúp chúng ta một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Khi nhìn nhận mọi vấn đề, chúng ta cần trang bị cái nhìn đa diện , nhiều chiều ....để ta có thể phát hiện ra bản chất thật sau cái vẻ ngoài của hiện tượng. Vì thế trong cuộc sống chúng ta không nên đánh giá hiện tượng và không thể đơn giản sơ lược khi nhìn nghĩ về cuộc sống của con người, không nên nhìn cuộc sống một cách dễ dãi, đơn giản qua hiện tượng. Và từ đó ta cũng nhìn nhận lại chính bản thân mình rằng ta đang nhìn mọi người, mọi việc bằng một đôi mắt bao dung chưa và chỉ luôn là soi xét? Biết bao nhiêu bài học có ý nghĩa ta cảm nhận được từ nhân vật người đàn bà hàng chài nói riêng và “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chung. Giờ thì thêm một lần nữa, ta hiểu thêm về ý nghĩa của văn chương: “Có thể khẳng định rằng, thời nào cũng vậy, nhân đạo hóa con người-đó là sứ mệnh cao cả và cái đích đến của văn chương.”
Như vậy, bằng cách tận dụng không gian truyện ngắn, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặt nhân vật vào những nghịch lý, éo le để được bộc bạch, trải lòng, Nguyễn Minh Châu gợi lên để lại những ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời và suy nghĩ, góc nhìn của con người. Một người đàn bà hàng chài với những nỗi khổ đau nhưng chưa bao giờ có ý định từ bỏ, một người mẹ dành tất cả tình yêu thương cho những đứa con, coi đó là sự sống. Một con người luôn tích cực, lạc quan chắt chiu những hạnh phúc nhỏ bé, bình dị. Tất cả đều trở thành những ấn tượng khó phai trong tâm trí bạn đọc. Hình ảnh người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp tâm hồn lấp lánh thêm một lần nữa khiến ta nhớ đến quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
Sứ mệnh của nhà văn được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn vẹn với “Chiếc thuyền ngoài xa”. Một hiện thực cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ hơn bao giờ hết, một nhân vật cho ta nhìn thấy được những vẻ đẹp của con người lao động dẫu trong khó khăn: đó là tình yêu thương con, là sự bao dung, nhẫn nhịn, thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ tiếng nói trân trọng với vẻ đẹp của con người lao động, mở ra những suy nghĩ tích cực cho bạn đọc, chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kì diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng như lời nhận định: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Và những điều đẹp đẽ ta cảm nhận được từ “Chiếc thuyền ngoài xa” giúp ta hiểu hơn những gì Thạch Lam từng quan niệm:“Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở những vật tầm thường. Công việc của nhà văn là hiểu cái đẹp ở chỗ mà không ngờ tới, tìm kiếm cái đẹp kín đáo và che lấp, cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”.
Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 3
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm kinh điển và tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với cảm hứng thế sự đương thời, các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã có những chuyển biến rõ nét. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình. Một trong số đó ta phải nói tới người đàn bà làng chài.
Thông thường các nhân vật trong các tác phẩm thường được người đọc nhớ đến bằng những tên gọi riêng, khó lẫn vào nhau. Hay trong chính tác phẩm, các nhân vật đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì đến người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ ấy, nhà văn muốn nhắn nhủ tới bạn đọc thông điệp rằng người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ: giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống nhưng cũng phải chịu vô vàn khổ cực, tủi hờn.
Người đàn bà xuất hiện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, không hề được chau chuốt, ướm chải mà qua nhận xét của nhiếp ảnh gia Phùng, người đàn bà ấy hiện lên với ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm, nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy.
Nếu ngoại hình đã hiện lên với một dáng vẻ xấu xí, thô kệch thì đến số phận, cuộc đời người đàn bà ấy hiện lên với một dáng vẻ cam chịu nhẫn nhục. Ngày ngày chịu những chồng đòn roi của người chồng vũ phu, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị. Nhưng dù có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Trước hết, người đàn bà làng chài là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Như những lời chị tâm sự thì việc bạo hành không phải là chuyện hiếm, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, khi mà “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng”, cứ khi nào chồng chị bực là chị bị đánh. Mặc cho bản thân bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy khỏi người chồng vũ phu, bạo lực ấy. Bởi lẽ ăn sâu vào tâm trí của những người phụ nữ nơi đây tâm lí nhẫn nhục của những người phụ nữ sống ở miền biển đã là một cái gì đó hiển nhiên.
Không những thế, người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, yêu thương con cái hết mực. Sự cam chịu của chị cũng một phần vì những đứa con. Khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi thấy thằng Phác xông đẩy ngã bố nó khi chứng kiến bố đánh mẹ, chị đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Chị kiên quyết không bỏ chồng cũng vì thương con, hi sinh vì con cũng. Bởi vì đối với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đi đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động và suy nghĩ của chị càng khẳng định thêm cho tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.
Chính sự thấu hiểu lẽ đời, đã làm cho cả nhiếp ảnh gia Phùng và chánh án Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, lam lũ, ít học, chỉ còn lại hình ảnh một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, chị chỉ dám ngồi sau vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Khi nói chuyện ở trước mọi người, lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Nhìn dáng vẻ đáng thương khi ấy của chị, cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Bằng chính những suy nghĩ, trải nghiệm thực tế trong cuộc đời, đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận thay vì khuyên ngăn chị bỏ cuộc đời ấy đi. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan.
Hình ảnh người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là đại diện tiêu biểu cho đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối vực sâu thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 4
Văn học chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Một tác phẩm văn học lưu giữ những dấu ấn của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn Nguyễn Minh Châu để tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ra đời. Nổi bật trong đó là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nhân vật này xuất hiện trong một tình huống độc đáo. Đằng sau cảnh “trời cho đắt giá” mà nghệ sĩ Phùng chụp được, lại là hiện thực tàn nhẫn - cảnh bạo lực gia đình, mà người đàn bà hàng chài chính là nạn nhân. Để rồi từ đó, câu chuyện tiếp tục được gợi mở. Qua đó, nhà văn đã gửi gắm những giá trị nhân vật cao đẹp.
Trước tiên, nhân vật người đàn bà hàng chài được xây dựng không có tên tuổi cụ thể, mà chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” hay “mụ”. Điều đó cho thấy, nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là một trong số biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng lại được xây dựng với số phận và cuộc đời mang tính đại diện cho những người đàn bà vùng biển trong xã hội.
Khi mới xuất hiện, nhân vật được nhà văn miêu tả với những nét ngoại hình. Dáng người mang đặc trưng của những người phụ nữ sống ở vùng biển “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Khuôn mặt của người đàn bà hiện lên đầy “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…”. Với ngoại hình này, Nguyễn Minh Châu đã gợi ra một cuộc đời đầy lam lũ, khổ cực của người đàn bà hàng chài.
Nhưng đằng sau ngoại hình xấu xí đó là vẻ đẹp khuất lấp đã được nhà văn khắc họa qua cuộc trò chuyện của người đàn bà với Đẩu và Phùng ở tòa án huyện. Sau trận xô xát của Phùng với người đàn ông hàng chài. Mấy ngày sau đó, người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời lên tòa. Một người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi. Điều đó thể hiện rõ sự nhút nhát, hiền lành của nhân vật này. Tại đây Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Sự xuất hiện của anh đã khiến người đàn bà cảm thấy sợ sệt.
Đến khi nghe Đẩu nói, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hiện lên là một người phụ nữ từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Người đàn bà ấy còn chấp nhận hết mọi lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... ”. Không chỉ vậy, chị còn hiểu được nỗi khổ của chồng, người đàn ông hàng chài bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác. Mà anh ta cũng chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Đối với chị, người chồng còn là chỗ dựa “để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Càng thấu hiểu điều đó, chị lại càng chấp nhận hy sinh vì các con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà ấy cũng là lúc được ngồi nhìn các con được ăn no, lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ. Thì ra đằng sau vẻ ngoài xấu xí, quê mùa ấy là một trái tim chan chứa yêu thương, một tâm hồn cao đẹp của người đàn bà vùng biển.
Như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên đầy chân thực. Với những giá trị nhân văn cao đẹp, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chắc hẳn sẽ có sống mãi với thời gian.
Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu 5
Nguyễn Minh Châu - nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại, là người “mở đường tinh anh và tài hoa” văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của ông được viết sau chiến tranh, khi ấy ông đã đem văn học về gần với cuộc sống, ngòi bút của nhà văn bám sát vào hiện thực để làm nổi bật những vấn đề thế sự trong cuộc sống con người thời hậu chiến. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa rất rõ nét và chân thực trong tác phẩm, một mặt để cho người đọc cảm nhận rõ sự thật cuộc đời, mặt khác lại thấy được những hạt ngọc đang ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam.
Giữa cảnh biển đẹp đẽ, hoàn mĩ như bức tranh mực tàu, người đàn bà hàng chài hiện lên vẻ ngoài lam lũ, tội nghiệp. Người đàn bà tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Mụ rỗ mặt và khuôn mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và đang buồn ngủ. Ngoại hình lam lũ, tội nghiệp là vậy, khi nhìn vào cảnh ngộ của người đàn bà này ta càng thêm xót xa, thương cảm. Chị ta phải chịu nhiều bất hạnh ngay từ khi còn trẻ. Thời còn con gái chị ta đã bị rỗ mặt do một trận đậu mùa khiến cho khuôn mặt trở nên xấu xí, khó lấy được chồng. Chị ta lỡ có thai với người con trai của một nhà hàng chài, từ đó theo chồng và gắn bó với nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển.
Từ khi có gia đình, chị ta phải lăn lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất và tủi nhục về tinh thần. Vì sinh đẻ nhiều, gia đình đông con mà thuyền lại chật, có những khi biển động gió lớn cả nhà chỉ đành ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Không chỉ thiếu thốn về vật chất, chị ta còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, thường xuyên hứng chịu những trận đòn roi vô lí của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chánh án Đẩu từng thốt lên rừng “cả nước không có một người chồng nào như hắn… chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, nghiệt ngã như vậy nhưng người đàn bà hàng chài vẫn giữ cho mình những phẩm chất quý giá. Đó là một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ. Trong đám con đông đúc của mình, chị ta thương thằng Phác nhất, không muốn nó chịu khổ nên phải gửi nhờ ông ngoại nuôi dưỡng. Điều đầu tiên mà chị ta mong mỏi cho các con là có cuộc sống ổn định, không phải lênh đênh, chịu bấp bênh và khổ cực trên biển. Dù cuộc sống có cơ cực chị vẫn cố gắng để các con của chị không chỉ được no đủ mà còn bảo vệ đời sống tinh thần của các con không bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Khi các con lớn, chị đã “xin chồng lên bờ mà đánh” vì chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh đau lòng đó.
Chị đã cố gắng hết sức để bảo vệ các con, thế nên khi thằng Phác lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy như chết lặng. Chị ta cảm thấy tủi nhục và đau đớn, nhát quất của chồng trên da thịt không đau bằng sự xuất hiện của thằng con trai “như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rơi xuống những dòng nước mắt. Chị ta đau vì cách hành xử của bố với mẹ đã làm tổn thương đến tâm hồn và nhân cách con trẻ, thằng bé dám thực hiện hành động độc ác ngay cả với cha đẻ ra nó là phản ứng tiêu cực.
Người đàn bà ấy còn có một tình yêu dành cho chồng sâu sắc. Vốn chị ta thương thằng Phác nhất cũng chính vì nó giống như lột cái lão đàn ông đã hành hạ chị, giống từ tính khí đến mặt mũi. Phải thừa nhận rằng cách hành xử thô bạo của chồng không làm cho chị ta thay đổi tình cảm của mình dành cho anh ta mà ngược lại vẫn nâng niu hình ảnh của người đàn ông ấy trong tình yêu của mình. Chị hiểu cho người đàn ông vì cuộc sống cơ cực nhiều bế tắc cần có cách để giải tỏa, nhưng chồng chị lại không biết uống rượu như những đàn ông khác. Dường như cách đánh vợ là cách duy nhất để giải tỏa những uất ức, chính vì thế khi con đã lớn, chị không yêu cầu chồng chấm dứt đánh những trận đòn mà chỉ xin chồng lên bờ mà đánh. Chị chấp nhận, cam chịu, nhẫn nhục để chồng có thể giải tỏa uất ức.
Ta nhìn thấy được một người đàn bà hàng chài giàu đức hy sinh vì con, vì chồng, vì gia đình. Trong cuộc sống cơ cực triền miên, chị ta luôn nhận lỗi về mình “phụ nữ trên thuyền đẻ nhiều quá”, điều đó còn bởi sự lạc hậu mà chị ta luôn miệng mong các chú cách mạng thông cảm cho. Niềm vui lớn nhất của chị là những lúc vợ chồng hòa thuận, đàn con được ăn no, đó là điều hiếm hoi nhưng người đàn bà luôn mong mỏi và trân trọng. Người đàn bà ấy đã xác định lẽ sống vì chồng, vì con, vì gia đình chứ không phải vì bản thân, quên hẳn những nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Dù bị chồng đánh và đày đọa nhưng chị ta vẫn van xin không bỏ chồng, chấp nhận bị bắt tội, bị phạt tù. Nghĩa là dù người đàn ông ấy có độc ác, tàn bạo đến mấy chị vẫn cần để có người cùng chèo chống khi phong ba và hơn nữa là chị muốn giữ gìn cho các con một mái ấm gia đình trọn vẹn, đủ đầy.
Có thể nói, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa chính là người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài dẫn dắt chúng ta đến với những góc tối tăm nhất của cuộc đời để nhìn nhận những sự thật gần ngay trước mắt. Trong nơi tối tăm ấy thứ ánh sáng duy nhất và đẹp đẽ nhất chính là phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người, tiêu biểu ở đây là phẩm chất cao đẹp của người đàn bà hàng chài.
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 6
Nhà văn Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ông có khối lượng sáng tác đồ sộ với các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận phê bình. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác năm 1987 là tác phẩm in đậm phong cách tự sự, triết lý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của 1 nghệ sĩ nhiếp ảnh: Phùng và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Trong truyện, một trong những nhân vật mà gây ấn tượng với em đó chính là người đàn bà hàng chài.
Đầu tiên, người đọc sẽ thấy được người đàn bà hàng chài là người phụ nữ không có vẻ đẹp ngoại hình. Người đàn bà hàng chài hiện lên với hình ảnh mặt rỗ như tổ ong, thân hình thô kệch và tỏ rõ sự mệt mỏi sau một chuyến đi biển về.
Thứ hai, điều mà em cảm nhận được ở người đàn bà hàng chài đó là nỗi khổ của người phụ nữ này. Không chỉ phải chịu đựng cảnh đói nghèo, gia đình luôn túng thiếu mà lại quá đông con, người đàn bà hàng chài còn phải sống với chồng là một kẻ vũ phu, luôn đánh đập vợ mỗi khi bực mình. Khổ là thế nhưng người phụ nữ này vẫn không dám nhờ đến pháp luật bỏ chồng vì đàn con bơ vơ, nheo nhóc.
Thứ ba, điều mà em thấy được ở người đàn bà hàng chài đó là những phẩm chất tốt đẹp của một người phụ nữ của gia đình. Đầu tiên, người đàn bà hàng chài là người phụ nữ có tình yêu thương con. Người đàn bà hàng chài vì các con mà xin chồng lên bờ mới đánh. Vì không muốn các con nhìn thấy cảnh mẹ bị bố bạo hành nên người đàn bà hàng chài đã luôn giấu các con mình. Đồng thời, người phụ nữ ấy cũng vì các con mà không dám bỏ chồng, bỏ chồng thì các con sẽ bơ vơ, và còn khổ hơn hiện tại nữa. Chắc chắn, người phụ nữ ấy đứng giữa sự giằng xé giữa hạnh phúc cá nhân và các con. Và tất nhiên, với người phụ nữ ấy, sự ưu tiên của các con chính là số 1. Đặc biệt nhất, người đàn bà hàng chài cũng từng nói "Hạnh phúc nhất là nhìn các đứa con tôi được ăn no".
Có thể nói, các đứa con chính là sinh mệnh, niềm vui và cuộc đời của người phụ nữ ấy. Người phụ nữ có thể vì các con mà chịu mọi sự khổ sở về tinh thần, lẫn thể xác, vì các con mà không mơ tưởng đến hạnh phúc cá nhân, bị bạo hành cũng không dám bỏ chồng. Thứ hai, người phụ nữ hàng chài là người phụ nữ có đức hy sinh.
Người đàn bà hàng chài coi các con chính là cả cuộc đời của mình,vì các con mà chịu mọi sự khổ sở về tinh thần, lẫn thể xác, vì các con mà không mơ tưởng đến hạnh phúc cá nhân, bị bạo hành cũng không dám bỏ chồng đi tìm hạnh phúc riêng, chấp nhận cuộc sống khổ sở vì các con cần cả cha và mẹ. Phẩm chất thứ ba của người phụ nữ hàng chài đó là việc người phụ nữ này suy tính cho chuyện tương lai. Người đàn bà hàng chài vì nghĩ tương lai của các con nên ko dám bỏ chồng. Cả vợ và chồng cùng nuôi con còn không kham nổi, nữa là bỏ chồng để các con bơ vơ ai nuôi.
Tóm lại, người đàn bà hàng chài là người phụ nữ dù có ngoại hình xấu xí, lam lũ nhưng lại là người có nhiều phẩm chất đáng quý tốt đẹp. Tuy nhiên, người đọc cảm nhận được một giá trị hiện thực mà tác giả gửi gắm, đó chính là hiện thực khổ sở của người phụ nữ ấy, cam chịu vì hoàn toàn bế tắc.
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 7
Người nghệ sĩ vốn là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mỹ bên trong. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.
Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, khi anh vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài ấy không chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong sự giận dữ tột độ. Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn như thế?
Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?
Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.
Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!
Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!
Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?
Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.
Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.
Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.
Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!
Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn. Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!
Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc. Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.
Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!
Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm. Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.
Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt bừng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hi sinh vì con cái.
Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu, vị tha.
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 8
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.
Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.
Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.
Dù chị có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.
Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.
Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hi sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.
Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hi sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
Phân tích người đàn bà làng chài - Mẫu 9
Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không
biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.
Phân tích người đàn bà làng chài - Mẫu 10
Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong số đó. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.
Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “Thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.
Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng được Nguyễn Minh Châu xây dựng đã góp phần trong việc thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Phân tích về nhân vật người đàn bà hàng chài - Mẫu 11
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.
Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.
Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.
Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.
Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?
Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.
Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.
Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.
Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.
..............
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích người đàn bà hàng chài