Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Anh hùng tiếng đã gọi rằng Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật
Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Anh hùng tiếng đã gọi rằng trích Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 2 mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua bài nghị luận về tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập hữu ích để biết cách triển khai bài bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật hay hơn.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng là một trong những trích đoạn hay trong Truyện Kiều, thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải qua những câu từ cô đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Vậy sau đây là 2 bài nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng hay nhất mời các bạn theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích Đọc Tiểu Thanh kí, phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng.
Viết bài nghị luận về tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Dàn ý nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng
a, Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm
b, Thân bài
- Hình tượng anh hùng Từ Hải qua lời nói của Thúy Kiều
- Khí phách ngang tàn, oai phong của bậc anh hùng càng nổi bật qua lời tự bộc bạch của Từ Hải
- Từ Hải – vị anh hùng đích thực khi dành cả giang sơn, mở rộng bờ cõi chỉ để cho Kiều gặp lại gia đình, song thân.
c, Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
- Cảm nhận của em về lý tưởng cao đẹp, khát khao công lý mà Nguyễn Du gửi gắm.
Nghị luận về tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che trở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một bậc từ bi giáng thế cứu đỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:
Chạm xương Chép dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều, việc Từ Hải đã cứu mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu nói đĩnh đạc mà bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”, bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi. Từ Hải hiện lên dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian vũ trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Nghị luận văn học Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Có lẽ thế, Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du - giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải phải là một con người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong "Truyện Kiều" như một nhân cách sử thi, Từ Hài đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sáng nhất, trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của "Đoạn trường tân thanh". Khắc họa một nhân vật như thế, không dùng bút pháp lãng mạn hoá, lý tưởng hoá, thì khó mà nổi bật. Để tô đậm tầm vác phi thường của hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã khác chạm bằng nhiều cách, từ nhiều phía. Ông đã giới thiệu lai lịch, đã mô tả ngoại hình, đã phô bày những cá tính... ở đây trong đoạn trích "Anh hùng tiếng đã gọi rằng..." này, phẩm chất Từ Hải được hiện lên chủ yếu bằng ngôn ngữ hùng tráng và kỳ tích anh hùng. Tuyên ngôn và hành động bao giờ cũng là một Phát ngôn được nấu nướng, kết tình từ hành động, còn hành động là sự thể hiện, là thước đo của phát ngôn. Nhờ đó mà Từ Hải thực sự là một vẻ đẹp lý tưởng và hoàn hảo
Đoạn thơ tự nó hình thành hai phần: cuộc trò chuyện Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh đầy kỳ tích của Từ Hải ở phần một, nhân cách anh hùng của Từ Hải trong lời nói, phần hai - phẩm cách anh hùng trong hành vi xuất chúng Từ không gian màn trướng khuê phòng ra không gian giang sơn trời đất, Từ Hải đã bước thẳng đền chính mình bằng những bước siêu phàm.
Mở đầu cuộc đối thoại là lời Thuý Kiều. Trước Từ, Kiều không hiện ra như một người bạn trăm năm, mà như một nạn nhân được cứu vớt che chở trước một ân nhân đã ra tay tế độ. Kiều càng tự thấy nhỏ bé bao nhiêu, Từ càng suy nghĩ, kỳ vĩ bấy nhiêu. Đôi với Nguyễn Du, Từ Hải là một giấc mơ, thì đối với Kiều, ngay đến mơ cũng không dám nghĩ rằng mình có Từ Hải. Tự nhận mình hèn mọn, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Bằng những lời ước lệ, thậm xưng, Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tầm vóc vũ trụ, phi phàm: "Trộm nhờ sấm sét ra tay", "Dế đem gan óc đền nghì trời mây". Có thể nói đó là cách gián tiếp để khắc họa Từ Hài, nghĩa là lối mượn lời nhân vật này để tạo dựng nhân vật khác.
Nhưng có lẽ, chính trong lời Từ Hải, phẩm cách anh hùng ở nhân vật này được bộc lộ nhiều hơn: vừa bình dị vừa siêu phàm. Cái việc Từ đã làm cho Kiều là một cuộc đổi đời, hồi sinh vô cùng lớn lao. Từ đã đưa Kiếu từ tận cùng ô nhục ("Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần") lên tột bậc danh giá! Từ gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ phu nhân, tạo điều kiện cho nàng được ân đền oán trả. Những việc phi phàm ấy lại được Từ lý giải bằng những động cơ rất thường tình, rất tự nhiên đối với minh:
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỳ một ngày được chăng
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lo là thầm tạ mới là tri ân!
Kiều cảm nhận sự việc bằng tâm thế một nạn nhân, ngưỡng vọng ơn trời bể. Còn Từ Hải lại xem là một việc vẫn thường làm đối với mình. Cả hai cách nói cũng như hai cách nhìn nhận đánh giá sự việc đều đạt một hiệu quả là làm cho Từ Hải hiện ra càng lớn lao hơn. Nhưng trong lời Từ, xét ra không phải chỉ có sự khiêm nhường: người này thực ra ý thức khá sâu sắc về giá trị và uy vũ của mình. Từ coi minh là "quốc sĩ", nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là "anh hùng". Vậy là văn võ song toàn! Chẳng phải sự hào hoa như một nghệ sĩ hài hoà với sự ngang tàng hào hùng của bậc trượng phu vốn đã là vẻ đẹp của Từ từng được Nguyễn Du trực tiếp khắc hoạ: "Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" đấy ư. Từ đâu chỉ là kẻ biết người, Từ cũng là một kẻ rất biết mình!.
Lý tưởng anh hùng của Từ Hải đối với đời thể hiện trong hành vi nghĩa hiệp đối với một con người cụ thể ấy là Thuý Kiều. Cứu đời, trước hết là cứu Thuý Kiều. Thực hiện công lý cho đời, trước hết là cho nàng Kiều. Sở nguyện, khao khát chân chính của những nạn nhân trở thành lý tưởng mục đích của người anh hùng. Người anh hùng đứng lên là sống cho họ, sống vì họ. Ước ao thầm kín của Kiều đã được Từ cảm nhận như một tri kỷ, tri âm. Nàng không nói, nhưng chàng tự coi mình có bổn phận đáp ứng. Kỳ tích anh hùng đã nảy sinh từ tấm lòng tri âm.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Kiều có một mong ước thầm kín mà da diết, đó là được trở về cố hương, đoàn tụ với gia đình, gặp lại song thân. Để đáp ứng sở nguyện ấy, người anh hùng đã thực hiện theo cung cách thật là khác thường: không phải tìm đường hộ tống nàng hổi hương, mà khởi binh, dựng nghiệp, lập ra cả một triều đình, đánh chiếm hàng loạt huyện thành, vạch đôi sơn hà, để dẹp đường cho hồng nhan tri kỷ gặp lại song thân... Thế đấy, Từ Hải không chỉ đổi đời cho Kiều mà còn vì Kiều, đem hạnh phúc đến cho biết bao sinh linh khác. Để đáp ứng một nguyện vọng bé mọn, Từ sẵn sàng làm những chuyện lớn lao. Hạnh phúc của Từ Hải là đem được hạnh phúc đến cho Thuý Kiều. Thấy Kiều hạnh phúc thì Từ mới cam lòng. "Sao cho thấy mặt là ta cam lòng” Qua lời Từ Hài, chúng ta đã có thể thấy nhân cách anh hùng của Từ là một sự hài hòa tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ...
Phần sau, Từ Hải hiện ra qua lời trần thuật trực tiếp của Nguyễn Du về hành động của Từ Hài. Không còn là cuộc đối thoại trong màn trướng mà là cuộc dấy binh trên chiến trường, giữa dọc ngang trời đất. Nhân cách anh hùng được khắc hoạ trong không gian sử thi
Trong cuộc đối thoại nói trên, Từ đã tôn vinh Thuý Kiều bằng cách phá vỡ, xoá sạch khoảng cách giữa mình và Kiều: tương quan sang - hèn, ân nhân - nạn nhân đã được Từ Hải nâng lên thành quan hệ tri kỷ - tri âm. Kiều đã được đặt ngang tầm, bình đẳng với Từ. Họ trở thành một cặp "Trai anh hùng gái thuyền quyên", "Người quốc sắc kẻ thiên tài". Ấy là một phía của nhân cách anh hùng
Ở đây ta thấy một phía khác. Từ quyết tạo ra một tương quan bình đẳng khác: bình đẳng với quyển uy tột đỉnh của nhà nước phong kiến. Từ cúi mình cứu vớt nạn nhân, nhưng cũng sẵn sàng tranh tài đọ sức, tranh hùng tranh bá với triều đình!
Để khác hoạ tầm cỡ đó của Từ Hài, Nguyễn Du đã dùng đến một hệ thống ngôn từ cũng đầy quyền uy: binh tướng, binh uy, bả vương, sơn hà, tranh cường, hùng cứ... và viết về hành vi của Từ Hài dứt khoát phải dùng những động từ chỉ động Từ Hải mạnh mẽ: Vội truyền, trúc chẻ, ngôi tản, gió quét mưa sa, huyện thành đạp đổ..., những giọng điệu đấy ngang tàng thách thức mang khẩu khí anh hùng: đòi phen,. Không gian vũ trụ, không gian sử thi trở thành khoảng không gian tung hoành phù hợp với khí phách Từ Hài. Những đơn vị địa lý, địa vực cứ được nới rộng đến cực đại để cho tính cách anh hùng của Từ được vùng vẫy, và có lẽ phải tạo một không gian như thế thì mới thể hiện được tầm vóc của Từ: Triều đình riêng một góc trời, huyện thành đạp đổ, năm tòa côi nam, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, nghênh ngang một cõi biên thuỳ, năm năm hùng cứ một phương hải tần... Những thi liệu ấy được phối hợp với những tiết tấu mạnh mẽ, âm điệu dồn dập, sôi động, biểu hiện binh lực hùng hậu. khi thế bách chiến bách thắng của Từ Hài. Và sâu xa hơn. nó biểu hiện được chi khí dám đương đầu, dám sông mái, đua tranh với thế lực thượng thời phong kiến. Nói theo giọng đời thường hiện Đại là cái chi khi "không ngán gi!" của Từ Hải.
Thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải, Nguyễn Du đã luôn cô đúc ngôn ngữ của mình thành những câu thơ có tầm khái quát hào hùng và lãng mạn: cánh hồng bay bông tuyết với Giang hồ quen thói vẫy vùng. Dày lâu bể Sở sông Ngô tung hoành. Đội trời đạp Đất ở đời, Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Năm năm trời biền ngang tàng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi, Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng.v.v... Những khái quát mang tính ước lệ, cách điệu ấy đã làm cho cái lai lịch anh hùng của Từ Hải có một tầm vóc hoành tráng. Còn riêng ở đoạn thơ này, hướng mô tả của Nguyễn Du có phần khác. Nhà thơ gắn với những biến cố thực tại, những hành động có phần cụ thể hơn của Từ Hải nhằm giao tranh, đạp đổ, phủ định cái trật tự phong kiến của triều đình, tự tay lập nên một trật tự của riêng mình. Bản lĩnh của Từ Hải hiện ra ở đây bằng hàng loạt hành động đảo lộn thời thế, cải tạo thực tại: Huyện thành đạp đổ, rạch đôi sơn hà, năm năm hùng cứ v.v... Và ở đây cũng không thiếu những câu thơ tự nó đã là những nét chân dung khái quát về tầm vóc, cốt cách anh hùng của Từ Hải:
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Trước cờ, ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Nhưng đặc sắc hơn cả, có sức kết tình hơn cả vần là hình ảnh này
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
Ấy là một. hình tượng thuộc về tầm vóc sử thi. Và đó là một sự tương phản gay gắt và tráng lệ. Sự tương phản đối chọi giữa một cá thể và cả một tập đoàn, sự đối lập giữa cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và sự phàm tục. Hình tượng lưỡi gươm công lý. mũi kiếm tự do biểu hiện ý chí và khát vọng cao quý của Từ Hài. Ta đã được thấy cảnh "mài gươm dưới trăng” của Đặng Dung, giờ lại được chiêm ngưỡng "phong trần mài một lưỡi gươm" của Từ Hải. Vậy là ở Tù Hải còn có một sự hài hoà khác: sự hài hoà giữa cốt cách hào hoa của một bậc quốc sĩ và vẻ phong trần của một tráng sĩ Hai chữ "phong trần" làm hiện lên gương mặt dài dấu từng trải, cuộc đời phong trần cát bụi. ngày tháng phong trần nấu nung ý chí, lưỡi gươm phong trần vì mục đích thanh cao... "Phong trần mài một lưỡi gươm" Từ Hải sừng sững giữa không gian và thời gian một cốt cách kiêu hùng.
Vâng, phải là con người ấy mới có thể thực hiện được khát vọng tự do, công lý của Nguyễn Du. Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi vỗ cánh lại làm xáo động cả đất trời. Chi có đôi cánh áy mới che chở được cho những nạn nhân như Thuý Kiều. Chỉ có đôi cánh ấy mới mang chồ được khát vọng nghìn đời của những con người thấp cổ bé họng sống dưới cái gầm trời tăm tối của thế giới "Truyện Kiều"