Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng Trích Truyện Kiều
Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng, trích trong Truyện Kiều ngay tiếp ngay sau cuộc đền ơn, trả oán của Thúy Kiều.

Eballsviet.com sẽ cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích về tác giả Nguyễn Du, đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng.
Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng
1. Đôi nét về tác giả Nguyễn Du
1.1 Cuộc đời
- Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau đó di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
- Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) và mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778).
- Vợ của Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình).
- Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau.
- Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình phong kiến quyền quý.
- Năm 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.
- Năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
- Trong khoảng thời gian này, ông đã có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến - những điều đó đã để lại dấu ấn trong sáng tác của ông sau này.
- Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
- Từ năm 1789, Nguyễn Du đã rơi vào cuộc sống khó khăn gian khổ hơn chục năm ở các vùng nông thôn khác nhau đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du có một vốn sống thực tế phong phú thô thúc ông suy ngẫm nhiều về xã hội, thân phận con người tạo tiền đề cho việc hình thành tài năng và bản lĩnh văn chương.
- Sau nhiều năm sống chật vật ở các vùng quê khác nhau, năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
- Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi thành Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội).
- Từ năm 1805 - 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- Năm 1813, ông được thăng Cần Chánh điện học sinh và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
- Đến khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa mà từ nhỏ đã quen thuộc.
- Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường đã mất vào ngày 10 tháng 8 năm 1820.
- Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
1.2 Sự nghiệp văn học
a. Các sáng tác chính
* Sáng tác bằng chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kỳ khác nhau.
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên): 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
- Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam): 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh quê hương ông.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
* Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
b. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du
* Đặc điểm nội dung:
- Tình cảm chân thành, sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, phụ nữ.
- Nguyễn Du đã đề cập đến một vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: xã hội cần phải trân trọng những giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng chủ thể sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó.
- Sáng tác của Nguyễn Du cũng đề cao hạnh phúc của con người tự nhiên, trần thế.
=> Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa văn học cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.
* Đặc điểm nghệ thuật
- Thể thơ phong phú: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật và ca, hành (nhạc phủ)...
- Góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc, làm giàu cho tiếng Việt qua việc Việt hóa yếu tố ngôn ngữ ngoại nhập.
2. Giới thiệu về Cảnh ngày xuân
2.1 Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 - 1809).
- Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc. Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
2.2 Thể loại
Truyện thơ Nôm
2.3 Vị trí đoạn trích
Thúy Kiều gặp Từ Hải khi ở lầu xanh lần hai và nàng được người anh hùng có chí khí, tài năng hơn người cứu thoát khỏi cuộc sống lầu xanh. Khi đã lập nên sự nghiệp “hùng cứ một phương”, Từ Hải giúp Kiều đền ơn, trả oán. Đoạn này tiếp ngay sau cuộc đền ơn, trả oán của Thúy Kiều (từ câu 2419 - 2450)
3. Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Chạm xương chép dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà
Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam.
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Chọn file cần tải:
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
