Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học (3 mẫu) Kể một câu chuyện tưởng tượng lớp 9
Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học gồm 3 mẫu hay nhất, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới, rèn luyện trí tưởng tượng thêm phong phú để kể câu chuyện tưởng tượng thêm sinh động.
Qua đó, còn giúp các em nhanh chóng trả lời câu hỏi tiết Nói và nghe: Kể một câu chuyện tưởng tượng Bài 6: Giải mã những bí mật SGK Ngữ văn 9 Kết nối tri thức tập 2 trang 35. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Eballsviet.com:
Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học lớp 9
Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học - Mẫu 1
Mỗi nhân vật văn học đều ghi lại trong tôi nhiều ấn tượng khác nhau. Khi câu chuyện về họ khép lại, lòng tôi lại gợi mở ra nhiều suy nghĩ. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” có lẽ là người gây cho tôi nhiều ám ảnh nhất. Nỗi ám ảnh ấy theo tôi cả vào giấc mơ.
Trong mơ, tôi thấy mình đang ở một ngôi làng nhỏ miền trung du, mấy chục ngôi nhà đứng cạnh nhau. Không điện đường, không khói bụi ồn ào, tất cả bình yên trong treo trông như làng quê nhiều năm về trước. Tôi mơ màng bước đi trên con đường đất nhỏ. Dưới gốc đa xù xì, người đứng người ngồi, trò chuyện râm ran. Xa xa có cánh đồng lúa rộng bao la, đàn cò bay lượn trắng cả một vùng…
Tôi lang thang hết đoạn đường dài, đến khi chân mỏi định tìm một nơi nghỉ tạm. Bất ngờ tôi nhìn thấy một ông cụ khoảng chừng sáu mươi tuổi, dáng người mảnh khảnh ngồi trong quán nước vừa hút thuốc lào vừa uống nước chè, miệng chóp chép ra điều đắc ý lắm. Càng nhìn, tôi càng thấy giống dáng vẻ ông Hai mà nhà văn Kim Lân miêu tả. Không lẽ tôi đi vào giấc mơ gặp ông Hai? Nghĩ vậy, tôi mạnh dạn bước tới chỗ quán nước, hỏi ông:
- Cháu chào ông ạ! Ông có phải ông Hai người làng chợ Dầu không ạ?
Nghe tôi nhắc tới làng chợ Dầu, ông liền ngẩng mặt nhìn tôi, hai mắt sáng rỡ:
- Đúng rồi cháu, ông là người làng chợ Dầu. Cháu là ai? Cũng là người làng tản cư lên ư? Sao ông lại chưa thấy cháu bao giờ?
Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ, ông đúng là ông Hai thật. Nhưng nơi này không phải làng của ông mà là nơi tản cư. Tôi lễ phép đáp lại câu hỏi của ông:
- Dạ cháu từ nơi khác đến đây. Cháu có nghe nói đến làng chợ Dầu nên muốn hỏi ông vài điều ạ.
- Cháu ngồi xuống đây, uống miếng nước rồi ông cháu mình nói chuyện. - Nghe nhắc tới làng của mình, ông Hai phấn khởi ra mặt, ông rót cho tôi một chén nước rồi bảo tôi ngồi xuống.
Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu, đành hỏi ông làng Chợ Dầu của ông cách đây bao xa, làng có giống như nơi này không. Ông như chỉ chờ có vậy, nói một hơi dài không nghỉ, ông khoe:
- Làng ông có phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều phát thanh cả làng đều nghe thấy. Làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, buồn không hề dính tới gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. – Mắt ông sang lên, nói rành mạch không sai một chữ, giống như ông đã ghi nhớ hết, chỉ cần có ai hỏi là ông có thể nói ngay.
Dừng một lát, như nhớ ra điều gì đó, ông lại nói:
- Chết! Còn cái dinh cơ cụ thượng làng ông. Có lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy. Có cái tượng đá ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày, bát tiên quá hải bằng người sứ. Cả cái cọc sắt cắm vào cái bầu rượu có đắp 4 con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần là cột thu lôi, thu cả sấm sét vào. Khiếp lắm!
Ông mải mê khoe mãi, khoe hết mọi thứ trong làng ông. Nhân lúc ông dừng lại uống nước, tôi liền hỏi:
- Làng tốt như vậy, sao ông lại tản cư đến đây ạ?
Không hào hứng như trước đó, khuôn mặt ông như trầm hẳn xuống, ông không trả lời tôi ngay mà hướng ánh mắt ra xa, chậm rãi nói:
- Kháng chiến nổ ra, ông cũng không muốn xa làng, muốn ở lại cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến bảo vệ làng. Nhưng sau cùng, ông vẫn phải mang theo gia đình đi tản cư. Ông nhớ làng, nhớ cả những ngày tháng cùng anh em đào đường đắp ụ, mệt nhưng mà vui lắm… Nhớ làng nên ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Ông vừa mới từ nơi đó ra đây ngồi thì gặp cháu.
Cảm nhận được nỗi nhớ nặng trĩu qua giọng nói của ông, tôi vừa thương vừa khâm phục tình yêu làng của ông. Để ông không quá đau lòng khi nhớ làng mà vẫn chưa thể trở về, tôi vội hỏi:
- Hẳn là có nhiều tin tức thắng trận từ làng lắm đúng không ạ?
- Có chứ cháu, tin quân ta giết địch, rồi tin thằng bé nhỏ tuổi dám bơi ra giữa hồ cắm cờ của ta. Nghe mà ruột gan ông cứ múa hết cả lên. – Nét mặt ông lại rạng rỡ hẳn lên. Có lẽ tình yêu làng tha thiết đã hun đúc lên tình yêu nước mãnh liệt trong ông
Tôi thấy ông lại lặng người đi, không hiểu vì sao cũng không dám lên tiếng hỏi. Một lát sau đó, ông lại tiếp tục kể:
- Cách đây ít lâu, ông nghe tin dữ từ làng Chợ Dầu. Hôm ấy, ông gặp tốp người tản cư từ Gia Lâm, người ta nói cả làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Cảm giác đó vẫn còn nguyên, cổ họng nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cố hỏi lại nhưng người ta vẫn khăng khăng đó là sự thật. Sau đó, người ta nói gì ông cũng không nghe rõ, cúi mặt mà đi về.
Ông Hai yêu làng như vậy, ngày nào cũng chờ mong tin tức về làng, đến khi nghe tin lại là tin như thế. Chắc hẳn khi ấy, ông đau đớn bàng hoàng lắm. Tôi chỉ nghĩ thầm trong lòng mà không dám ngắt lời ông. Dù là chuyện đã qua và không phải sự thật nhưng nỗi đau khi ấy nhớ lại vẫn làm ông nghẹn ngào:
- Khoảng thời gian đó rất khó khăn. Ông không tin người làng lại đổ đốn ra đến vậy. Nhưng không có lửa làm sao có khói? Nhìn lũ con ông lại càng đau đớn hơn, nếu là thật chẳng phải chúng là trẻ con làng Việt gian sao? Rồi ông lại hay tin người làng Chợ Dầu đi đến đâu là đuổi đến đó. Gia đình ông cũng là người làng Chợ Dầu, lại đang tản cư. Mụ chủ nhà hôm ấy cũng tới đuổi khéo. Ông bế tắc không biết làm thế nào cho phải…
- Ông có nghĩ sẽ quay về làng không ạ? – Tôi hỏi
Ông Hai lại nhấp thêm một ngụm chè:
- Suy nghĩ ấy có thoáng qua, nhưng làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Thằng con út ông ấy vậy mà thông minh lắm, những ngày tin làng theo giặc đồn ra, xấu hổ nhục nhã ông nào dám đi đâu. Ở nhà, ông thủ thỉ nói chuyện với nó, thằng bé muốn về làng nhưng nó ủng hộ cụ Hồ. Tâm bố con ông là vậy, bên trên cụ Hồ, an hem soi xét cho bố con ông.
Đoạn, nét mặt ông vui tươi hẳn lên:
- Nhưng may mắn cháu ạ, mấy hôm sau, tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính. Bọn Tây nó đốt nhà ông, ông chủ tịch làng ông lên tận nơi cải chính. Ông vui quá cháu ạ.
Tôi thấy nước mắt ông tràn qua kẽ mắt, thầm cảm động lòng yêu làng của ông. Dù ông nói phải thù vì làng theo Tây mất rồi, nhưng ông vẫn chưa từng thôi hy vọng tin tức kia là giả, làng của ông vẫn là làng kháng chiến. Tôi định hỏi tiếp thì nghe thấy tiếng loa phát thanh ở xa, ông Hai đứng dậy rồi chạy đi. Tôi gọi với theo thì chỉ nghe tiếng ông vọng lại:
- Chắc là có tin ta thắng trận, ông phải ra xem mới được…
Tôi choàng tỉnh. Nhìn bầu trời đầy sao bên ngoài cửa sổ tôi mới hay mình ngủ quên trên bàn học, quyển sách giáo khoa mở đúng truyện ngắn “ Làng”. Dù chỉ là một giấc mơ nhưng tôi vẫn cảm nhận được tình cảm yêu làng, yêu nước đáng quý của ông Hai. Ông chính là đại diện cho tầng lớp nông dân yêu nước, kháng chiến giành độc lập dân tộc, đáng trân trọng, ngợi ca.
Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học - Mẫu 2
Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ, đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do mà ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày đó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương.
Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy? Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca lô
– Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng thân yêu của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:
– Cháu làm liên lạc ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm liên lạc… Vui lắm chú à!
Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ửng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm.
Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: Thôi, chào đồng chí! kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon.
Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay những người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi…
Mỗi khi nghĩ đến Lượm, tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng.
Kể chuyện tưởng tượng Em gặp gỡ một nhân vật văn học - Mẫu 3
Một buổi sáng mùa thu, tôi quyết định lên đường đến Sapa, mong muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng và cái đẹp hoang sơ của thiên nhiên. Khi xe lửa dừng lại ở ga Lào Cai, tôi bắt đầu chuyến hành trình dài đến đỉnh núi. Con đường uốn lượn qua những cánh rừng xanh mướt, qua những thửa ruộng bậc thang vàng rực trong nắng.
Trên đường, tôi tình cờ gặp một anh thanh niên độ chừng 27, 28 tuổi, dáng người cao gầy, khuôn mặt rám nắng và đôi mắt sáng ngời. Anh mặc một chiếc áo khoác dày, đôi giày vải đã sờn và mang theo một chiếc ba lô nhỏ. Tôi chào hỏi và anh đáp lại bằng nụ cười thân thiện. Sau một lúc trò chuyện, tôi mới biết anh là người làm công tác khí tượng trên đỉnh núi Yên Sơn, một công việc lặng lẽ nhưng vô cùng quan trọng.
- Anh sống một mình trên đỉnh núi suốt nhiều năm qua, không thấy cô đơn sao? - Tôi hỏi.
Anh cười, ánh mắt trở nên xa xăm:
- Ban đầu thì cũng có chút cô đơn, nhưng dần dần tôi thấy quen. Công việc của tôi là ghi chép và báo cáo các số liệu khí tượng, một việc tuy lặng lẽ nhưng có ý nghĩa lớn. Hơn nữa, tôi yêu thiên nhiên, yêu sự tĩnh lặng và yên bình của nơi này. Mỗi ngày, tôi đều nhìn thấy những điều kỳ diệu mà thiên nhiên mang lại.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình lên đỉnh núi. Anh dẫn tôi qua những con đường mòn, những khung cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Khi đến trạm khí tượng, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn nằm giữa những tán cây xanh, tôi cảm nhận được sự ấm áp và yên bình.
- Mời anh vào nhà, tôi sẽ pha một ấm trà nóng. - Anh nói.
Trong căn nhà nhỏ gọn gàng, chúng tôi ngồi xuống và thưởng thức ly trà thơm. Tôi ngắm nhìn những thiết bị khí tượng được sắp xếp ngăn nắp và những cuốn sổ ghi chép đầy chữ.
- Anh làm công việc này từ bao giờ? - Tôi tò mò hỏi.
- Từ khi tôi ra trường, cũng được gần 5 năm rồi. Lúc đầu tôi cũng không nghĩ mình sẽ gắn bó lâu như vậy, nhưng rồi tôi nhận ra đây là công việc tôi yêu thích và cảm thấy có ích.
Anh kể về những ngày tháng sống và làm việc trên đỉnh núi, những kỷ niệm vui buồn và cả những khó khăn mà anh đã trải qua. Tôi càng lắng nghe, càng cảm phục lòng nhiệt huyết và tình yêu thiên nhiên của anh.
Buổi chiều, khi mặt trời bắt đầu lặn, anh dẫn tôi lên một đỉnh cao để ngắm hoàng hôn. Ánh nắng vàng rực rỡ chiếu xuống những thửa ruộng bậc thang, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Anh nói:
- Mỗi ngày, tôi đều chứng kiến khoảnh khắc này. Đây là phần thưởng lớn nhất cho công việc lặng lẽ của tôi.
Tôi đứng lặng người, cảm nhận sự yên bình và vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Chuyến gặp gỡ với anh thanh niên làm công tác khí tượng đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Tôi hiểu rằng, dù công việc có lặng lẽ và đơn độc đến đâu, nếu ta có tình yêu và đam mê, ta sẽ tìm thấy niềm vui và ý nghĩa trong cuộc sống.
Rời Sapa, tôi mang theo những kỷ niệm đẹp và bài học quý giá từ anh thanh niên, người đã chọn cho mình một con đường khác biệt nhưng đầy ý nghĩa. Những bước chân anh vẫn đều đặn trên đỉnh Yên Sơn, ghi lại những thay đổi nhỏ nhất của thiên nhiên, đóng góp vào sự phát triển và hiểu biết của nhân loại.