Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam Văn mẫu 9 Chân trời sáng tạo

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam gồm 3 mẫu hay nhất, giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới, dễ dàng lựa chọn cho mình một đoạn trích trong một truyện thơ yêu thích để viết bài phân tích thật sâu sắc.

Truyện thơ

Với 3 bài phân tích vẻ đẹp của truyện nôm Tống Trân - Cúc Hoa, đoạn thơ Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngày xuân, còn giúp các em dễ dàng trả lời câu hỏi tiết Viết - Bài 5: Khát vọng công lí (Truyện thơ Nôm) SGK Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo tập 1 trang 145.

Đề bài: Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam là một trong số những hoạt động mà Câu lạc bộ Văn học trường em tổ chức nhằm khuyến khích học sinh tìm hiểu truyện thơ dân tộc. Để hưởng ứng hoạt động ấy, em hãy chọn một đoạn trích trong một truyện thơ mà mình yêu thích để viết bài phân tích và gửi cho câu lạc bộ.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 1

Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ truyện thơ nôm Kinh Tống Trân Cúc Hoa. Truyện thơ Tống Trân - Cúc Hoa có nguồn gốc từ truyện cổ tích Giã sử quan trạng Gầu. Truyện được xây dựng trên những mâu thuẫn phức tạp của cuộc sống đời thường. Đó là những nghịch cảnh, nghịch lí trớ trêu của cuộc đời mang đến nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc.

Truyện nôm là một bộ phận văn hóa độc đáo và có những giá trị sâu sắc trong nền văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi rộng vì vậy có người gọi truyện thơ nôm là trung thiên tiểu thuyết. Những giá trị mà truyện nôm mang lại cho cuộc sống được khẳng định qua sự tồn tại của nó theo thời gian.

Chuyện kể rằng Tống Trân vốn là con cầu tự, lên ba tuổi thì cha mất gia đình hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ con chàng phải đi ăn xin kiếm sống qua ngày, cuộc sống muôn vàn khó khăn vất vả. Một hôm Tống Trân đưa mẹ tới nhà quý phái, tại đi Tống Trân và Cúc Hoa gặp nhau, thương tình cho cảnh nghèo đói của mẹ con chàng, nàng Cúc Hoa đem gạo ra cho và đem lòng yêu Tống Trân. Dưới sự ngăn cản của gia đình Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng cho mẹ chồng vừa lo cho chồng ăn học.

Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên được vua khen là “quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một mình Tống Trân không ai sánh được”. Nhà vua muốn gả con gái cho chàng nhưng bị khước từ. Chính vì điều đó là chàng bị cử đi sứ Tần , chàng lúc nào cũng không quên nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ hình ảnh mẹ già và người vợ thảo hiền của mình “thân nàng theo mừa đuổi hiên/ Thân nàng về lầu các mái hiên/ Phít se quan Trạng Nguyên nàng vọng/ Dõi theo bóng Trạng Nguyên xa khuất”. Tống Trân là một người tài giỏi, yêu thương gia đình hai vợ chồng chưa được bên nhau bao lâu thì bàng hoàng khi nhận được chiếu chỉ của vua ban “ngày vui ngắn chẳng tày ngang/ chữ hiếu chưa tròn chữ tình dở dang”. Chàng lên đường theo chiếu chỉ của vua thế nhưng lòng vẫn luôn hướng về gia đình. Tống Trân thương người mẹ già tuổi đã cao, thương người vợ hiền đảm bao công nuôi mẹ rồi nuôi chồng nay mới hưởng được chút vinh danh lại phải xa cách mà chưa biết bao giờ mới có ngày đoàn tụ. Cả đoạn Tống Trân chia tay mẹ già và người vợ hiền để lên đường đi sứ mang đến cho ta cảm giác xa cách, chứa chan nước mắt với những từ ngữ đầy buồn đau như “thảm hại”, “lệ tuôn lai láng”, “nước mắt rơi lã chã”,…Tống Trân đến với Cúc Hoa bằng tình cảm chân thành, họ yêu nhau không vì danh lợi bởi tình cảm họ dành cho nhau đều đến từ trái tim. Cúc Hoa nguyện ở nhà nuôi mẹ cho chồng vững bước trên đường xa. Một người vợ với tấm lòng đôn hậu, nghĩa tình thủy chung nặng tình nặng nghĩa như Cúc Hoa quyết định ở lại chăm lo cho mẹ già chờ ngày chồng trở về. Ở nơi xứ lạ quê người, Tống Trân không ngừng nhớ về quê hương, nhớ về mẹ về vợ của mình “thoảng nhớ nàng nhớ đến Cúc Hoa/ Nhớ vợ châu lệ xa không cạn/ Nhớ đến mẹ lão mẫu thân sinh” không gian xuất hiện cũng chỉ nhằm để đi sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dòng tâm trạng của Tống Trân cuộn chảy theo thiên nhiên, khiến cho lời thơ trở nên mới mẻ sinh động và phong phú.

Cúc Hoa là một người con dâu hiếu thảo, lễ phép ở nhà làm một dạ nuôi con nuôi mẹ chờ chồng. Mặc dù xuất thân trong một gia đình quý phái với đầy đủ về vật chất thế nhưng nàng có một người cha tàn nhẫn và ác độc. Tác phẩm là câu chuyện đẹp để về tình cảm son sắt sự thủy chung giữa Cúc Hoa và Tống Trân. Vì lòng thương chàng trai nghèo khổ nàng quyết định mổ từ bỏ gia đình để về làm vợ chàng. Mặc dù sống cuộc sống nghèo khổ, phải xa chồng nuôi mẹ thế nhưng nàng chưa một lần than thở hay cảm thấy khó chịu mà còn luôn yêu thương chăm sóc cho mẹ khi chồng vắng nhà. Cùng mẹ san sẻ lo lắng cho cuộc sống, lo cho mẹ hơn chính bản thân của mình. Người vợ thủy chung luôn hy sinh và lo lắng cho chồng. Cúc Hoa chấp nhận chịu thiệt, hi sinh bản thân để chăm lo cho chồng, tạo cho chồng có cơ hội được học tập thi đỗ thành tài. “Kể chi phận thiếp đàn bà/ Khó nghèo chớ quản lỗi nhà thảm thương”. Nàng tự ý thức được thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải luôn chịu áp lực, thiệt thòi, chịu những định kiến cổ hủ của xã hội. Cúc Hoa và người mẹ già là đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù vậy Cúc Hoa vẫn một lòng tin tưởng chồng không ngại khó khăn nuôi mẹ lại nuôi cả chồng. Có thể thấy Cúc Hoa là một người vợ thủy chung thấu tình đạt lý. Nàng chấp nhận thân phận nữ nhi với nhiều thiệt thòi, bất công để lo cho chồng sự nghiệp phát triển. Không giống như bậc nam nhi trong xã hội đương thời, thật may mắn khi Tống Trân là một người luôn lo lắng cho mẹ, thương yêu vợ của mình. Kết thúc truyện họ đã được trở về bên nhau sống cuộc sống hạnh phúc và viên mãn.

Tác phẩm đã mang đến cho ta những giá trị nhân văn sâu sắc. Nếu như ta thường thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống mẹ chồng nàng dâu thì ở đây Cúc Hoa cùng mẹ chồng lại chăm sóc yêu thương nhau, họ cảm thông cho nhau vì cùng là số phận của những người phụ nữ. Nàng dâu hiếu thảo lễ phép hết mực thương yêu gia đình chồng. Tác phẩm đã lên án gay gắt xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên tình yêu của con người. Số phận những người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu bất công áp bức

Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa đã mang đến cho ta những giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh sâu sắc. Chính tình yêu của quốc hoa của họ đã mang đến thông điệp về sự dũng cảm, nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn thách thức trong cuộc sống để đến được hạnh phúc viên mãn.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 2

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.

Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:

Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.

Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:

Vân xem trang trọng khác vời,

Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:

Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.

Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.

Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam - Mẫu 3

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc. “Truyện Kiều” là kiệt tác của nền thi ca cổ Việt Nam. Đây cũng là một tác phẩm sáng ngời tinh thần nhân đạo. Trong đó, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của truyện. Nó tiêu biểu cho sự thành công về bút pháp tả cảnh, tả tình rất tài hoa của nhà thơ. Qua đoạn trích, ta thất được một niềm vui xôn xao, náo nức lan tỏa, lắng đọng trong lòng bạn đọc khi tác giả đưa ta về với khung cảnh lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc trong lễ tết thanh minh.

Bốn câu thơ đầu mở ra một khung cảnh hữu sắc, hữu hương, hữu tình nên thơ giữa bầu trời bao la, mênh mông, xanh thẳm có những cánh én nhỏ đang chao nghiêng, chao đi chao lại trông như những con thoi trên tấm vải khổng lồ. Trong nhiều tác phẩm thì cánh én luôn báo hiệu mùa xuân đến, mùa xuân ấm áp trở về sau thời gian gió lạnh nhưng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì cánh én chao nghiêng như đưa thoi gợi lên hình ảnh thời gian trôi đi rất nhanh:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Dân gian ta có câu: “thời gian thấm thoắt thoi đưa như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu”. Câu thành ngữ ấy đã nhập vào hồn thơ của Tố Như để tạo ra một cánh én đưa thoi ở ngay chính câu thơ đầu của đoạn trích. Cùng với thời gian đưa thoi là ánh sáng đẹp của mùa xuân, ánh thiều quang đã ngoài sáu mươi ngày. Bằng lời thơ gợi tả cùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh “con én đưa thoi” đã gợi ra sự nuối tiếc của con người vì cái đẹp ấy sắp qua khiến lòng người bâng khuâng, lưu luyến, muốn níu kéo mong cho đất trời mãi còn xuân. Không chỉ riêng Nguyễn Du, mà cả Xuân Diệu cũng đã từng viết:

“Xuân đang đến là xuân sắp qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già”

Đó chính là quy luật tuần hoàn của thời gian, của vũ trụ. Nhưng trong tiết trời tháng ba ấm áp và trong trẻo ấy có một màu xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non, trải dài, trải rộng như một tấm thảm khổng lồ kéo đến tận chân trời. Bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, trong trẻo, tinh khôi tràn đầy sức sống của mùa xuân hiện lên qua bút pháp miêu tả tài tình của nhà thơ:

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Bằng vài nét chấm phá, nghệ thuật miêu tả tài tình, kết hợp với các hình ảnh đặc sắc “cỏ non xanh, lê trắng”, từ ngữ chọn lọc “điểm”…Nguyễn Du đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi sáng, đẹp đẽ và sinh động vô cùng. Trong cái nền “cỏ non xanh” có điểm thêm một vài bông hoa lê trắng. Hai chữ “trắng điểm” của Tố Như như là một nét chấm phá đầy sáng tạo và độc đáo, thu hút mắt người đọc, tai người nghe như mở ra trước mắt chúng ta một khung cảnh lễ hội tưng bừng náo nức giữa bầu trời xuân êm đềm, trong trẻo, tràn ngập sắc màu. Màu sắc được phối hợp một cách hài hòa, tự nhiên đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp với nền xanh điểm trắng nhẹ nhàng, tao nhã, tinh khôi, thanh khiết, trong trẻo tràn đầy sức sống với không gian trải dài trải rộng ngút ngát về phía chân trời chứ không phải là bức tranh của thơ ca cổ Trung Hoa đơn điệu một màu:

“Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa”

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân:

“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”

Nguyễn Du đã đưa chúng ta trở về lễ hội tưng bừng của người dân Việt Nam, lễ hội mang nét đẹp truyền thống của dân tộc. Lễ tảo mộ là lễ của những người còn sống đi quét dọn, thắp hương, sửa sang phần mộ cho những người đã mất để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, nhớ thương của người ở lại với người đã ra đi, của con cháu với tổ tiên. Việc làm đó thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đây chính là lễ giáo văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta.

Bên cạnh “lễ tảo mộ” là “hội đạp thanh”, là cuộc du xuân, cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài gái sắc, nam thanh nữ tú, “hội đạp thanh” còn là cơ hội gặp gỡ tạo nên sợi tơ hồng để thành duyên đôi lứa mai sau. Vì vậy không khí lễ hội đông vui, nhộn nhịp đến lạ thường:

“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã gợi ra không khí lễ hội bằng một loạt từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy “nô nức”, “dập dìu”, “sắm sửa” và từ ghép, từ Hán-Việt” “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe”, “gần xa”, “yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động, không khí lễ hội rộn ràng, đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp mọi miền đất nước. Trong dòng người nô nức đó có ba chị em Kiều cũng sắm sửa, hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng, rộn rã của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị “Ngựa xe như nước áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người người đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim oanh ríu rít bay về dự lễ hội mùa xuân. Cảnh chảy hội thật đông vui, náo nhiệt trên khắp nẻo đường “gần xa”, những dòng người cuồn cuộn đi trẩy hội, có biết bao “yến anh” đang nô nức, giục dã, chân nói nhịp bước trong dòng người tấp nập, đông vui, nhộn nhịp trên khắp các làng quê. Điều đó cho thấy những “tài tử giai nhân” đã chuẩn bị hết sức chu đáo mong ngóng ngày hội vui để được hưởng niềm hạnh phúc của tuổi trẻ trong tiết màu xuân đẹp đẽ. Đi trẩy hội đã thể hiện được nếp sống phong lưu của chị em Kiều.

Thơ vốn là nghệ thuật của ngôn từ, các từ ghép “yến anh; chị em;tài tử, giai nhân; ngựa xe; áo quần” chính là những danh từ và “gần xa; nô nức; sắm sửa; dập dìu” là động từ, tính từ được thi hào dân tộc sử dụng chọn lọc, tinh tế đã làm sống lại lễ hội mùa xuân. Trong niềm vui của ngày hội xuân đó, đời sống tâm linh cùng với phong tục, dân gian cổ truyền được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông sâu sắc:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Với nhịp thơ 2/4 và 4/4, giọng thơ trầm xuống thoáng hiện ra một nét buồn cho thấy cõi âm và cõi dương, người sống và người chết, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống ngổn ngang trong “lễ tảo mộ”, cái tâm thì thánh thiện, niềm tin thì phác thực, dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử giai nhân, chị em Kiều không chỉ cầu nguyện cho riêng mình cầu nguyện cho những vong linh mà còn gửi gắm biết bao niềm tin, ước vọng về một tương lai hạnh phúc

Sáu câu thơ cuối là đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

“Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Mặt trời đã “tà tà” xuống núi, ngày hội vui đã qua rất nhanh, chị em Kiều “thơ thẩn dan tay ra về”. Hội đã tan, lòng người buồn lưu luyến. Nhịp thơ chậm rãi, tâm tình đến “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp chân thì bước dần, tất cả để lại một nỗi lòng man mác, bâng khuâng, lần xem với mọi cảnh vật như tiếc nuối ngày vui mau qua. Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh vật hiện lên vẫn đẹp nhưng đã không còn tươi sáng như lúc đầu ngày. Cái tài miêu tả của Nguyễn Du khiến không khí lễ hội lúc tan ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh dịu, lặng lẽ, mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân “thơ thẩn” trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu đa cảm qua việc sử dụng một loạt các từ láy vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân dường như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Bằng việc sử dụng các từ láy gợi tả: “tà tà, thơ thẩn, nao nao, nho nhỏ, thanh thanh”, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bút pháp ước lệ gợi nên sự nhạt nhòa của cảnh vật nhưng lại rất đẹp, rất thân quen với mỗi chúng ta bởi không ai xa lạ với “ngọn tiểu khê, nhịp cầu nho nhỏ” nơi làng quê yên bình bởi đó chính là màu sắc của quê hương trong lòng người. Cảnh chiều đẹp nhưng buồn còn tâm tình của giai nhân thì cứ man mác, bâng khuâng, nuối tiếc ngày hội vui đã tàn.

“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,...

Chia sẻ bởi: 👨 Lê Thị tuyết Mai
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm