Văn mẫu lớp 8: Phân tích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương Dàn ý & 10 bài văn mẫu lớp 7
Tác phẩm Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh được giới thiệu trong chương trình học môn Ngữ văn.
Eballsviet.com sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương, bao gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu. Cùng theo dõi chi tiết dưới đây.
Phân tích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh
Dàn ý phân tích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Hà Ánh Minh, văn bản Ca Huế trên sông Hương (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…).
II. Thân bài
1. Giới thiệu về Huế - cái nôi của những làn điệu dân ca
- Các làn điệu dân ca, điệu lý ở Huế:
- Các điệu hò - hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm: gửi gắm một ý tình trọn vẹn.
- Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh hồn buồn bã.
- Hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nang vung: náo nức nồng hậu tình người.
- Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện: gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh.
- Các điệu lý: lý con sáo, lý hoài xuân, lí hoài nam...
=> Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế.
- Các dụng cụ âm nhạc: đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam, đàn bầu, sáo, cặp sanh.
=> Huế là mảnh đất, là cái nôi sinh ra những làn điệu dân ca. Các làn điệu phong phú và đa dạng, sâu sắc, chan chứa tình cảm.
2. Những đặc sắc của ca Huế trên sông Hương
- Cách thức biểu diễn:
- Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng.
- Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, dây, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi.
- Dàn nhạc cất lên tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người.
=> Thanh lịch, tinh tế, mang nét dân tộc.
- Cách thưởng thức:
- Thời gian: đêm, màn sương dày đặc, thành phố lên đèn như sao sa.
- Không gian: con thuyền bồng bềnh trôi trên dòng sông trăng gợn sóng.
- Cách thức: trực tiếp nghe và xem các nhạc công biểu diễn.
- Nguồn gốc của ca Huế: kết hợp giữa dòng nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng, uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng.
- Thể điệu của ca Huế: có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương, ai oán…Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi nên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
=> Ca Huế vừa trang trọng, vừa sôi nổi uy nghi. Nghe ca Huế là một thú vui tao nhã.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản "Ca Huế trên sông Hương".
Phân tích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương
Mẫu số 1
Văn bản Ca Huế trên sông Hương của tác giả Hà Ánh Minh đã cung cấp những kiến thức hữu ích về loại hình nghệ thuật đặc trưng của xứ Huế - ca Huế.
Mở đầu, nhà văn khẳng định xứ Huế nổi tiếng với các làn điệu hò, ngoài ra còn có điệu lí. Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng cho thấy sự phong phú và đa dạng của điệu hò, điệu lí. Từ đó, tác giả phân tích giá trị, nét độc đáo của các các điệu hò: từ ngữ địa phương nhuần nhuyễn, diễn tả ý tình trọn vẹn, thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế.
Những câu văn tiếp theo, nhà văn miêu tả khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương vào ban đêm - đây chính là không gian, thời gian trình diễn ca Huế: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục”. Hà Ánh Minh đã đóng vai người lữ khách giống như một người lữ khách bước xuống con thuyền rồng - con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa để thưởng thức ca Huế. Kế tiếp, nhà văn đã giới thiệu về nghệ thuật trình diễn ca Huế rất tỉ mỉ. Về nhạc cụ, “Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp…”. Cùng với các nhạc công: “Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đống duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam…”. Đặc biệt nhất là cách biểu diễn ca Huế: “Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người…”.
Cuối cùng, Hà Ánh Minh mới khẳng định đến nguồn gốc của ca Huế: “Ca Huế được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình đem lại cho ca Huế nét đặc sắc riêng thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục…”. Cùng với đó là lời nhận xét về ca Huế: “ Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh. Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán… Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch… ”. Giọng văn nhẹ nhàng, lời văn giản dị kết hợp với sử dụng nhiều biện pháp tu từ đã khiến cho bài viết thêm sinh động, thuyết phục.
Tóm lại, văn bản Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh đã gửi gắm thông điệp ý nghĩa, đem đến nguồn kiến thức bổ ích, phong phú.
Mẫu số 2
Ca Huế là một hình thức sinh hoạt văn hóa - âm nhạc thanh lịch và tao nhã, một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng và bảo tồn. Văn bản “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Ánh Minh đã cung cấp những kiến thức bổ ích về ca Huế.
Mở đầu, tác giả đã giới thiệu về xứ Huế, vốn là cái nôi của những làn điệu dân ca. Các làn điệu dân ca, điệu lý ở Huế lần lượt được liệt kê: “hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả”. Ngoài ra còn có các điệu lý như: “lý con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam”. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra nét đặc trưng của từng làn điệu: “Bốn nhạc khúc lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt, các ngón đàn trau chuốt. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người. Những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như: nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc phá phách điệu Nam không vui, không buồn…”. Chỉ với một đoạn văn ngắn, nhưng Hà Anh Minh đã làm rõ được rằng Huế là mảnh đất, là cái nôi sinh ra những làn điệu dân ca. Các làn điệu phong phú và đa dạng, sâu sắc, chan chứa tình cảm.
Tiếp đến, tác giả đã phân tích những nét đặc sắc của loại hình nghệ thuật ca Huế. Khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương đầy mơ mộng và huyền ảo: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên dát ánh trăng vàng”. Chính trong không gian này, ca Huế được trình diễn mang lại một điều thật đặc biệt.
Từ khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương, tác giả chuyển đến không gian trên thuyền: “Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Các ca công mặc áo dài, đội khăn xếp, khăn đóng. Các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác thương cảm, bi ai, vương vấn…”. Từng câu từng chữ đã vẽ nên một bức tranh hoàn chỉnh, một buổi biểu diễn ca Huế: “Bừng lên những âm thanh của đàn hoà tấu, du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế… các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả… Tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh”.
Ở những câu văn tiếp, tác giả lại giải nguồn gốc của ca Huế - được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Sự kết hợp giữa này đã đem lại cho ca Huế nét đặc sắc riêng thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục.
Đoạn cuối, tác giả đóng vai một người lữ khách đang ngồi trên thuyền để thưởng thức ca Huế, từ đó bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ của bản thân.
Tác phẩm “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Ánh Minh đã góp phần giới thiệu về một loại hình nghệ thuật đặc sắc của mảnh đất cố đô Huế, là một nét đẹp trong bản sắc xứ Huế, là điệu tâm hồn của người Huế.
Mẫu số 3
Ca Huế là một hình thức sinh hoạt văn hóa - âm nhạc thanh lịch và tao nhã, một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng và bảo tồn. Điều đó được khẳng định qua tác phẩm “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Ánh Minh.
Mở đầu bài viết, Hà Ánh Minh khẳng định xứ Huế nổi tiếng với nhiều điệu hò. Từ đó, tác giả phân tích giá trị, nét độc đáo của các các điệu hò: từ ngữ địa phương nhuần nhuyễn, diễn tả ý tình trọn vẹn, thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế. Tất cả làm nên sự đa dạng trong các loại hình nghệ thuật của Huế.
Tiếp theo, nhà văn khắc họa khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương đầy mơ mộng và huyền ảo: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục”. Hà Ánh Minh đã tự ví mình giống như một người lữ khách bước xuống con thuyền rồng - con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa để thưởng thức ca Huế. Nhà văn đã miêu tả cụ thể, tỉ mỉ về nhạc cụ: “Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp…”. Cùng với các nhạc công: “Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đống duyên dáng. Huế chính là quê hương chiếc áo dài Việt Nam…”. Và cả cách thức biểu diễn ca Huế: “Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người…”. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh, liệt kê để vẽ lên khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình và nét sinh hoạt văn hoá thanh lịch, tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc của xứ Huế.
Cuối cùng, nhà văn làm rõ nguồn gốc của ca Huế: “Ca Huế được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình đem lại cho ca Huế nét đặc sắc riêng thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục…”. Cùng với đó là lời nhận xét về ca Huế: “ Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh. Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán… Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch… ”. Lời nhận xét tinh tế của người nghệ sĩ đích thực.
Bài viết “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Ánh Minh đã cung cấp những kiến thức độc đáo về ca Huế.
Mẫu số 4
Việt Nam là đất nước giàu truyền thống văn hóa, lịch sử. Mỗi vùng miền có những nét đặc sắc riêng về văn hóa. Bắc Ninh có quan họ, Tây Nguyên có cồng chiêng… Còn đến với xứ Huế mộng mơ ta có ca Huế - nét đặc sắc của người Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Những nét nổi bật đó đã được phản ánh một cách chi tiết qua văn bản “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Ánh Minh.
Ca Huế trên sông Hương là văn bản nhật dụng. Tác phẩm đã giới thiệu sự phong phú, đa dạng của ca Huế về nội dung, làn điệu, sự tinh tế trong biểu diễn và thưởng thức. Đây là nét đẹp của cố đô Huế cần được giữ gìn và phát triển. Mở đầu tác phẩm là sự khẳng định của Hà Ánh Minh về xứ Huế: “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò. Hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăm tằm”. Như vậy ta có thể thấy rằng hò là nếp sinh hoạt văn hóa quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức, đời sống của người dân xứ Huế. Không chỉ dừng lại ở đó, với biện pháp liệt kê Hà Ánh Minh còn cho thấy sự đa dạng, phong phú của các điệu hò: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, hò giã vôi, giã điệp… Có vô vàn các điệu hò khác nhau thể hiện những suy nghĩ. Những cung bậc tình cảm của con người và dù điệu hò đó có ngắn hay dài thì nó vẫn luôn thể hiện trọn vẹn một ý tình của người hát.
Cái hay nhất, đặc sắc nhất chính là phần tác giả nói về hình thức sinh hoạt văn hóa ca Huế được diễn ra trên sông Hương, chỉ cần đọc những nét chữ tài hoa của tác giả ta cũng như được sống trong cái êm ái, dìu dặt của âm nhạc Huế.
Bằng sự am hiểu của mình, tác giả đã lý giải nguồn gốc của ca Huế được hình thành từ nhạc dân gian (mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan) kết hợp với nhạc cung đình (tôn nghiêm, trang trọng, uy nghi). Với sự kết hợp hai yếu tố đối lập tưởng chừng như không thể hòa hợp được với nhau nhưng lại chính là yếu tố làm nên tính chất nổi bật nhất của ca Huế là sự đa dạng về hình thức, phong phú về sắc thái tình cảm.
Cách thức biểu diễn ca Huế cũng được tác giả mô tả rất chi tiết, cách vào đề vô cùng tự nhiên: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục” người lữ khách bước xuống thuyền rồng, hóng mát, ngắm trăng và thưởng thức cái tinh hoa nhất của xứ Huế ấy chính là các làn điệu dân ca. Qua từng chặng, từng lớp lang, Hà Ánh Minh đã cho người đọc thấy được cách thức biểu diễn, công cụ cũng như tâm tư, tình cảm của con người nơi đây được gửi gắm qua mỗi câu hát, lời hò đó.
Nhạc cụ để chơi ca Huế cũng rất phong phú, bao gồm: đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp, dàn nhạc thật thanh lịch, tinh tế, mang đậm tính dân tộc. Với những nhạc cụ này cùng với các nhạc công tài hoa đã tạo nên những bài hò đặc sắc, in đậm dấu ấn trong lòng người nghe. Biểu diễn các làn điệu Huế còn có sự góp mặt của các ca công, họ đều là những người còn rất trẻ, nam mặc quần thụng, áo the, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Các nhạc công sử dụng những ngón đàn trau chuốt như: nhấn, mổ, vỗ, ngón bấm… trong không gian yên tĩnh những âm thanh ấy hòa quyện vào nhau du dương, trầm bổng, réo rắt khiến cả khung cảnh và con người như bừng tỉnh giấc, làm xao động cõi sâu thẳm nhất trong lòng mỗi con người.
Để thưởng thức trọn vẹn cái hay cái đẹp của ca Huế, thì lựa chọn khung cảnh cũng hết sức quan trọng. Phải là trên một con thuyền rồng, lênh đênh giữa dòng sông Hương mơ mộng, với ánh trăng trải vàng khắp mọi nơi, không gian huyền ảo, sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền… không gian ấy tạo nên sự cổ kính, trang trọng nhưng đồng thời cũng hết sức hòa hợp với thiên nhiên. Không chỉ vậy không gian đó làm tâm hồn ta thêm thanh tịnh, trong sạch để cảm nhận tất cả những gì tinh túy nhất của ca Huế. Làn điệu ca Huế đa dạng, phong phú khi buồn bã, bi ai khi lại sôi nổi, vui tươi như chính những cung bậc cảm xúc của con người nơi đây.
Bài viết đã thể hiện những nét nghệ thuật đặc sắc của bút kí kết hợp với nghị luận, miêu tả và biểu cảm của tác giả. Bằng biện pháp liệt kê tác giả đã cho thấy nhiều nét đặc sắc, đặc trưng riêng của làn điệu dân ca xứ Huế. Nhà văn vừa liệt kê vừa kết hợp với bình luận giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự phong phú của các làn điệu, sự sâu sắc và tâm hồn con người Huế gửi gắm qua mỗi câu ca, lời hát đó.
Chỉ với một bài viết ngắn gọn, cô đọng và sâu sắc tác giả đã làm nổi bật những nét đặc sắc của ca Huế. Nét tinh hoa của xứ Huế - ca Huế được gói gọn trong lớp ngôn từ giản dị, mượt mà, nhẹ nhàng giàu tình cảm. Cho thấy tình yêu sâu nặng của tác giả với văn hóa, con người nơi đây.
Mẫu số 5
“Ca Huế trên sông Hương” là một bài tùy bút đặc sắc, giàu chất thơ của Hà Ánh Minh đã đăng trên báo “Người Hà Nội”. Bài tùy bút đã ngợi ca vẻ đẹp phong phú, đặc sắc, độc đáo của những điệu hò, bài lý, những bài dân ca Huế, những khúc nhạc, những tiếng đàn réo rắt du dương đầy sức quyến rũ, thể hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn con người Huế xưa và nay.
Hà Ánh Minh cho biết “xứ Huế nổi tiếng với các điệu hò” như: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, hò mái nhì, hò mái đẩy, ru em, giã điệp, giã vôi, bài chòi, bài tiệm, nàng vung... Bà con xứ Huế cất tiếng hò trong lao động sản xuất, hay trong mọi sinh hoạt đồng quê, “hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cày cấy, gặt hái, trồng cây, chăn tằm”... Hò xứ Huế, ý tình “trọn vẹn”, từ ngữ địa phương được dùng “nhuần nhuyễn”, ngôn ngữ diễn tả “thật tài ba phong phú”. Giọng điệu cũng muôn màu muôn vẻ: hồ đưa kinh (tông tiễn linh hồn) thì “buồn bã”; chèo cạn, hò giã gạo, hò mái nhì, mái đẩy, bài chòi... thì “náo nức, nồng hậu tình người". Các điệu hò lơ, hò xay lúa, hò nện... “thể hiện lòng khát khao, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế”. Dân ca Huế còn nổi tiếng với các điệu lý rất tình tứ, dịu ngọt như: lý con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam...
Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rũ. Ca Huế là sự kết hợp hài hòa giữa dòng ca nhạc dân gian đậm đà, đắm say và ca nhạc cung đình, nhã nhạc “trang trọng uy nghi”. Ca Huế rất phong phú, thể hiện theo hai dòng lớn: điệu Bắc và điệu Nam với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc. Điệu Nam như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân... thì “buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn”.
Ca Huế rất phong phú, đa dạng, biến hóa về âm hưởng, thể điệu và lời ca. Âm hưởng các bản nhạc điệu Bắc pha phách điệu Nam thì “không vui, không buồn” như “tứ đại cảnh”. Thể hiện ca Huế có “sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán”. Lời ca thì trăm màu trăm vẻ: “thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch”:
Đặc biệt, ca Huế còn rất hấp dẫn đối với du khách vì không gian trình diễn là trên một con thuyền rộng to và dài, đầu rồng như muốn bay lên; sàn gỗ bào nhẵn, mui vòm trang trí lộng lẫy. Đêm xuống, màn sương dày lên. Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông Hương gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Những đêm ca Huế tuyệt vời như vậy.
Dàn nhạc dân tộc trong đêm ca Huế có đàn tranh, đàn nguyệt, tỳ bà, đàn nhị, đàn tam, đàn bầu, sáo, cặp sanh để gõ nhịp, có đủ mặt anh tài tham gia.
Các ca công rất trẻ, nam với áo dài the, quần thụng, khăn xếp; nữ rất xinh đẹp, mặc áo dài, khăn đóng, duyên dáng. Nghệ thuật biểu diễn vô cùng điêu luyện, đủ các ngón đàn trau chuốt như: ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, dây, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi..., nghe rất du dương, trầm bổng, réo rắt, lúc khoan lúc nhặt “làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người”.
Hòa cùng tiếng đàn, nhịp phách là “sóng vỗ ru mạn thuyền”, là tiếng gà gáy bên làng Thọ Xương, tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh... Đêm đã khuya, chùa Thiên Mụ mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên dát vàng... Khung cảnh ấy thật huyền ảo, thơ mộng. Giữa không gian ấy lúc đêm đã về khuya, các ca nhí đẹp như những nàng tiên cất lên những điệu Nam “nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn”. Đúng như tác giả đã nói: “Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rũ”. Gà gáy đã sang canh mà trong khoang thuyền “vẫn đầy ắp lời ca, tiếng nhạc”.
Hà Ánh Minh - một lữ khách thích giang hồ, lần đầu được thưởng thức một đêm ca Huế trên sông Hương không bao giờ có thể quên. Lúc bước xuống thuyền rồng “với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu”. Lúc nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế “với tâm trạng chờ đợi rộn lòng”. Say đắm trong lời ca tiếng nhạc du dương, tác giả cảm thấy: “Không gian như lắng đọng. Thời gian như ngừng trôi”. Ca Huế, chính là nội tâm con gái Huế “thật phong phú và âm thầm, kín đáo và sâu thẳm”. Nhận xét ấy rất xác đáng, rất phong tình và tài hoa. Câu văn như rung động, cảm xúc dồn nén lại, lắng đọng và bâng khuâng.
Qua bài tùy bút Ca Huế trên sông Hương, tác giả đã dành những lời đẹp nhất, hay nhất ngợi ca một thú chơi tao nhã của con người núi Ngự sông Hương đã bao đời nay. Hò Huế, ca Huế và những tiếng đàn réo rắt du dương trong những đêm trăng ca Huế trên sông Hương là một nét đẹp của miền văn hóa Huế rất đáng trân trọng và tự hào.
Phân tích Ca Huế trên sông Hương
Mẫu số 1
Mảnh đất Huế, con người Huế, văn hóa Huế không chỉ là đề tài cho âm nhạc, hội họa mà cho cả văn chương. Có biết bao nhiêu bài thơ nói về Huế, có biết bao nhiêu nhà văn xuất thân từ Huế. Từ xa xưa Huế đang mang cho mình một nét đẹp dịu dàng mơ mộng. Để góp phần tôn vinh những vẻ đẹp của Huế tác giả Hà Ánh Minh đã trình làng một bài bút kí Ca Huế trên sông Hương để ca ngợi nét văn hóa nơi này.
Trước hết tác giả trình bày sự đa dạng và phong phú của ca Huế cũng như những nhạc cụ dân tộc nơi này. Ca Huế vô cùng phong phú nó gồm nhiều thể loại và mang những âm hưởng khác nhau. Bằng cách liệt kê những thể loại của ca Huế tác giả đã mở ra một vùng văn hóa vô cùng đặc sắc trước mắt người đọc. Bên cạnh những thể loại ca Huế thì không thể không kể đến những nhạc cụ dân tộc truyền thống. Đó là chiếc đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, cặp sanh….
Để làm nên sự hấp dẫn của ca Huế thì không thể kể đến nghệ thuật biểu diễn. Một bài hát có hay đến đâu mà mang cho một người không biết hát không biết biểu diễn thì nó chẳng còn giá trị gì. Những ca công mặc quần áo đẹp, những nhạc công sử dụng nhiều ngón đàn điêu luyện. Khi ca công cất lên tiếng và khi nhạc công cất lên tiếng đàn thì hai thứ âm thanh đó hòa quyện với nhau âm vang trên sông nước.
Ca Huế vốn phong phú và hấp dẫn thế nhưng nó chỉ thực sự trọn vẹn khi con người ta thưởng thức ca Huế trên sông Hương. Khác với những thể loại âm nhạc khác, phải được nghe ca Huế ở trên dòng sông mới đúng chất ca Huế. Ngồi trên sông nước mênh mông nghe âm thanh vang vang và náo nức đợi chờ.
Vậy nguồn gốc của ca Huế là từ đâu? Ca Huế được kết hợp từ hai thể loại âm nhạc xưa, đó là nhạc dân gian và nhạc cung đình. Đó là sự kết hợp giữa sự ấm áp tình người, bình dị thân thương với sự tôn nghiêm kính cẩn.
Qua đây ta có thể thấy được nét đẹp văn hóa Huế mà cụ thể là ca Huế. Nó không chỉ có nguồn gốc đặc biệt mà còn hấp dẫn và hay khi được trình diễn ở trên sông Hương. Tác giả bằng kinh nghiệm và hiểu biết của mình đã trình bày thật chi tiết về nghệ thuật xứ Huế.
Mẫu số 2
Qua những áng văn chương, chúng ta đã được thưởng thức biết bao nét đẹp của nhiều vùng đất nước. Ở miền Bắc, tiêu biểu là Hà Nội, có cốm Vòng thơm dẻo, có mùa xuân dịu dàng... Ở miền Nam, tiêu biểu có Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh - cảnh ngọc ngà, người nhân hậu... Còn ở miền Trung, vùng đất ở giữa thân hình Tổ quốc Việt Nam - cố đô Huế thì sao? Nhiều nghệ sĩ xưa và nay từng gọi Huế là vùng đất mộng và thơ. Một trong những chất mộng và thơ ấy của Huế là kho tàng những bài ca dao - dân ca, là những cuộc biểu diễn và thưởng thức ca nhạc Huế trên sông Hương vào những đêm trăng trong, gió mát. Đấy là một nét đẹp văn hoá của xứ Huế. Đọc bài bút ký Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh, chúng ta sẽ được tham dự, thưởng thức một sinh hoạt đậm màu sắc văn hoá độc đáo của vùng đất miền Trung ruột thịt ấy.
“Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò…” - tác giả Hà Ánh Minh nhận xét như thế. Và đã điểm qua một số làn điệu dân ca Huế với những đặc điểm nổi bật đáng ghi nhớ: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã. Hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện thì gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Ngoài ra còn có các điệu lý như lý con sáo, lý hoài xuân, lí hoài nam... Tuy mỗi làn điệu mang âm sắc, tiết tấu khác nhau, nhưng dường như dân ca xứ Huế đều giống nhau là: “Thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế”. Phải chăng đó là tình yêu quê hương, đất nước, là tình người nhân hậu thuỷ chung, là những khát vọng về cuộc sống luôn được ấm no, hạnh phúc... hoà trong tâm hồn Việt Nam ở mọi miền đất nước?
Sau khi suy ngẫm, tìm hiểu về kho tàng các điệu hò, bài hát dân gian xứ Huế, tác giả đưa người đọc xuống thuyền rồng, tham dự một đêm trăng nghe ca nhạc Huế. Giữa thuyền là “một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên…”. Tuy nhỏ, nhưng con thuyền vẫn đủ không gian của một sân khấu ca nhạc. Điều khác sân khấu trong rạp là khán giả và người biểu diễn cận kề bên nhau thân mật như người nhà. Trước khi thưởng thức ca nhạc, ta hãy ngắm nhìn các diễn viên. Đấy cũng là những con người đẹp quý và không kém sang trọng! Các ca công nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Nhìn ra không trung, cảnh Huế hoà với con người, chiếc thuyền cũng đẹp và thơ mộng làm sao. “Trăng lên. Gió mơn man, dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn lòng…”. Ngòi bút miêu tả và biểu cảm của tác giả êm nhẹ, trong trẻo và say đắm mơ mộng làm sao. Thưởng thức ca nhạc như thế đúng là một sinh hoạt văn hoá dân gian, khác hẳn nghe ca nhạc trong rạp hát hoặc bằng, đĩa tại gia đình... Sinh hoạt văn hoá dân gian thường mang tính nguyên hợp, nghĩa là nó hoà đồng, tổng hợp, mà ở đó, không gian, người diễn xướng và người thưởng thức... đồng hiện, gắn bó với nhau tạo nên bức tranh cuộc sống sinh động, lôi cuốn.
Buổi diễn xướng bắt đầu. Cả không gian, ánh trăng, mặt nước, lòng người cùng bừng lên với những âm thanh của các loại nhạc khí hoà hợp với giọng ca dìu dặt, uyển chuyển của các ca công. Những bản nhạc cổ mang những cái tên độc đáo: “lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, long hổ…” - ngân lên dưới các ngón đàn tài hoa, trau chuốt “nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, dây, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi…”. Tiếng đàn khoan nhặt làm xao động tận đáy hồn người. Những lời ca cùng ngân lên hoà trong thanh sắc của tiếng đàn, nhịp phách. Khúc điệu Nam - Nam ai, Nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn. Khúc tứ đại cảnh mang âm hưởng điệu Bắc pha điệu Nam không buồn không vui mà làng lủng biết bao nỗi niềm. Tất cả, âm thanh, lời hát, ánh trăng, sóng nước, tâm hồn người nghệ sĩ và người thưởng thức hòa quyện với nhau khi sôi nổi, tươi vui, lúc bâng khuâng, tiếc thương, ai oán, khi thong thả, trang trọng, lúc dồn dập, thiết tha gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch... Nhà văn Hà Ánh Minh thật tinh tế, đắm say khi vừa miêu tả phong cảnh, vừa ghi âm các bản nhạc, lời ca, vừa suy ngẫm, nhận diện tên các tác phẩm dân gian đặc sắc xứ Huế. Hoà trong cảm nhận, nghĩ suy ấy của tác giả, chúng ta hiểu thêm nhiều điệu thức, bài ca độc đáo của Huế mộng và thơ.
Ca Huế là sự hòa quyện, giao lưu giữa chất dân gian mộc mạc và chất bác học trau chuốt, đạt tới độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Vì thế, thưởng thức ca Huế, nhất là trong khung cảnh đêm trăng ngời sáng. Trên dòng Hương Giang bồng bềnh, cận kề ngay cạnh các nghệ sĩ nam thanh nữ tú là một thú vui tao nhã đầy sức quyến rũ. Nói khác đi, đây là một sinh hoạt văn hoá thanh cao, lịch sự, dễ gây được cảm tình và lòng yêu mến giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.
Cảnh và người xứ Huế mộng và thơ. Tác giả đã sử dụng ngòi bút miêu tả hài hoà với kể chuyện; biểu ý hài hoà với biểu cảm, liệt kê được khá nhiều danh từ gọi tên các bài ca, các khúc nhạc, nhạc cụ; hài hoà với nhiều tính từ, động từ đặc tả tính chất, động tác; câu văn dài ngắn, khoan nhật, co duỗi, lên bổng, xuống trầm... đã tái hiện được một bức tranh sinh động của đêm nghe ca Huế trên sông Hương. Nghệ thuật ấy, ý và tình ấy phần nào đã tương xứng với những nét đẹp văn hoá của xứ Huế....
Qua văn bản “Ca Huế trên sông Hương”, chúng ta hiểu thêm một sinh hoạt văn hoá độc đáo của xứ Huế, biết thêm nhiều điều về kho tàng dân ca, ca nhạc ở vùng đất cố đô... Từ đó, chúng ta thêm yêu mến, tự hào vẻ một địa danh miền Trung của Tổ quốc chúng ta - Huế mộng và thơ - yêu mến thêm những bài ca, điệu nhạc hài hoà chất dân dã và chất cung đình của Huế.
Mẫu số 3
Việt Nam - một đất nước giàu truyền thống văn hóa, nghệ thuật. Những nét đẹp độc đáo đó đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà văn, nhà thơ. Tiêu biểu là văn bản “Ca Huế trên sông hương” của Hà Ánh Minh.
Mở đầu tác phẩm, Hà Ánh Minh khéo léo gợi nhắc về sự khởi nguồn của những điệu hò xứ Huế: “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăm tằm”. Chẳng biết tự bao giờ, hò đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa quen thuộc của người Huế. Nó ăn sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây, trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống.
Tác giả đã sử dụng thành công biện pháp liệt kê để thể hiện sự đa dạng phong phú của những điệu hò. Không chỉ có một hai điệu, chèo ở Huế có vô vàn điệu khác nhau: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã gạo, ru em, hò giã vôi, giã điệp... Mỗi điệu hò lại mang một suy nghĩ, chứa đựng những cung bậc cảm xúc khác nhau. Dù ngắn dù dài luôn gửi gắm trọn vẹn tình ý của người hát, tha thiết, lay động tâm hồn. Để rồi từ đó, tác giả đi vào giới thiệu hình thức sinh hoạt văn hóa ca Huế trên sông Hương. Dưới ngòi bút tài hoa và tình yêu dành cho ca Huế, người đọc như được sống trong sự êm ái, sâu lắng của âm nhạc xứ Huế, chân thực đến lạ thường.
Tiếp đến, Hà Ánh Minh lý giải nguồn gốc của ca Huế. Ca Huế là sự kết hợp hài hòa của nhạc dân gian với nhạc cung đình. Chính vì vậy, nó vừa mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan vừa có sự tôn nghiêm, trang trọng và uy nghi. Sự kết hợp của hai âm hưởng mang tố chất đối lập đã tạo ra sự độc đáo nổi bật của Ca Huế, cả về hình thức biểu đạt lẫn sắc thái tình cảm.
Sau khi rõ sự khởi nguồn của Ca Huế, Hồ Minh Ánh tiếp tục đem tới cho người đọc cái nhìn vô cùng cụ thể về cách thức biểu diễn loại hình nghệ thuật độc đáo này. Khung cảnh ấy hiện lên thật tự nhiên và chân thực. Không phải ban ngày náo nhiệt, không phải nơi phòng kín bày biện phong cách cổ xưa. Địa điểm và thời gian thưởng thức ca Huế cực kỳ mới lạ. Đó là khi màn đêm buông xuống, “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục”. Người lữ khách bước xuống thuyền rồng, vừa tận hưởng những cơn gió trong lành mát rượi, vừa tắm mình dưới ánh trăng, vừa thưởng thức các làn điệu dân ca - cái tinh hoa bậc nhất của xứ Huế. Từng câu từng chữ, từng lớp từng làng, lần lượt gợi lên cho chúng ta bức tranh hoàn chỉnh về cách thức biểu diễn, công cụ biểu diễn. Cũng như cảm xúc, tâm trạng của con người được gửi gắm trọn vẹn qua từng câu hát, từng làn điệu.
Nhạc cụ biểu diễn ca Huế rất phong phú. Bao gồm nhiều loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc như: đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Phụ trợ thêm còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp, dàn nhạc thật thanh lịch, tinh tế, mang đậm tinh hoa dân tộc. m điệu tạo thành từ nhạc cụ hòa cùng sự khéo léo, tài hoa của các nhạc công tạo nên dấu ấn sâu đậm trong lòng người nghe về những điệu hồ có một không hai.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến sự góp mặt của những ca công. Họ là những người trẻ tuổi, khoác lên mình trang phục truyền thống, nam mặc quần thụng, áo the, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Họ sử dụng những ngón tay khéo léo, chau chuốt mượt mà đàn: nhấn, mổ, vỗ, ngón bấm... cùng nhau tạo nên những âm điệu say đắm lòng người. Trong không gian yên tĩnh về đêm, những âm thanh tạo ra nhờ những người tài hoa nghệ sĩ đan quyện vào nhau, du dương, trầm bổng, lay động tới tận linh hồn mỗi con người.
Và để thưởng thức trọn vẹn cái đẹp của ca Huế, việc lựa chọn khung cảnh là vô cùng trọng yếu. Như Hà Minh Ánh nói, nơi thưởng thức ca Huế phải là con thuyền rồng lênh đênh trôi nổi giữa dòng sông Hương thơ mộng. Khi màn đêm đã buông và ánh trăng bàng bạc bao phủ khắp nơi, lung linh huyền bí như chốn bồng lai tiên cảnh. Vừa cổ kính, nghiêm trang vừa hòa hợp với thiên nhiên tươi đẹp. Tâm hồn người nghe cũng bỗng chốc được gột rửa, thanh tịnh, trong sạch, không vướng bận, không lo âu. Từ đó mới cảm nhận được trọn vẹn những gì tinh túy, giá trị nhất của ca Huế. Cảm nhận được trọn vẹn những cung bậc cảm xúc của con người nơi đây.
Có thể nói, bài viết là sự kết hợp thành công những đặc sắc của nghệ thuật bút kí với nghị luận, miêu tả và biểu cảm. Ngôn từ mượt mà, giản dị mà giàu tình cảm. Đặc biệt, việc sử dụng thành công và khéo léo biện pháp liệt kê, tác giả đã đem đến cho người đọc nhiều hiểu biết về nét đặc trưng riêng của làn điệu dân ca xứ Huế. Qua đó, không chỉ giới thiệu về ca Huế trên sông Hương, tác giả còn ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Huế thể hiện trong mỗi câu ca, lời hát, gửi gắm tình yêu tha thiết của mình dành cho văn hóa nghệ thuật, dành cho ca Huế và con người Huế.
Một bài viết ngắn gọn, súc tích nhưng ẩn chứa nhiều giá trị sâu sắc. Nhờ đó, những người vốn chưa một lần đặt chân đến xứ Huế mộng mơ lại như được sống trong không gian ngân nga những làn điệu dân ca trữ tình đằm thắm. Bất tri bất giác, thêm yêu mảnh đất ấy vô cùng.
Mẫu số 4
Ca Huế là một hình thức sinh hoạt văn hóa - âm nhạc thanh lịch và tao nhã, một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng và bảo tồn. Đến với Ca Huế trên sông Hương, Hà Ánh Minh đã giúp người đọc cảm nhận được rõ điều đó.
Đầu tiên, tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê để cho thấy sự phong phú của các làn điệu xứ Huế. Nơi đây vốn nổi tiếng với các điệu hò: “hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả”. Ngoài ra còn có các điệu lý như: “lý con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam”. Hà Ánh Minh còn chỉ rõ nét đặc trưng của từng làn điệu: “Bốn nhạc khúc lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt, các ngón đàn trau chuốt. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người. Những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như: nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc phá phách điệu Nam không vui, không buồn…”. Ca Huế có những giá trị nổi bật là sự phong phú, đa dạng về làn điệu nhạc cụ, nhạc khúc và sâu sắc, thấm thía về tình cảm.
Cùng với đó, tác giả còn lý giải nguồn gốc của ca Huế. Những làn điệu ca Huế mang những nét đặc trưng của đất và người xứ Huế. Ca Huế được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình đem lại cho ca Huế nét đặc sắc riêng thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục… Chính vì vậy, nó vừa mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan vừa có sự tôn nghiêm, trang trọng và uy nghi.
Tác giả tiếp tục đưa ra những đặc điểm nổi bật của ca nhạc dân gian là các làn điệu dân ca, những điệu hò, điệu lý thường phản ánh sinh động các cung bậc tình cảm vui buồn của con người. Còn nhạc cung đình là nhạc dùng trong những buổi lễ tôn nghiêm của vua chúa hoặc nơi tông miếu thiêng liêng nên thường có sắc thái trang trọng, uy nghi.
Nhà văn đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương đầy mơ mộng và huyền ảo: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên dát ánh trăng vàng”. Trên nền thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Họ là những người nghệ sĩ: “Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Các ca công mặc áo dài, đội khăn xếp, khăn đóng. Các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác thương cảm, bi ai, vương vấn…”. Từng câu từng chữ đã vẽ nên một bức tranh hoàn chỉnh: “Bừng lên những âm thanh của đàn hoà tấu, du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế… các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả… Tiếng gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh”. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh, liệt kê, các động từ, tính từ, hình ảnh để vẽ lên khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình và nét sinh hoạt văn hoá thanh lịch, tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc của xứ Huế.
Tóm lại sau khi đọc tác phẩm “Ca Huế trên sông Hương”, Hà Ánh Minh đã cho thấy ca Huế là một nét đẹp trong bản sắc xứ Huế, là điệu tâm hồn của người Huế.
Mẫu số 5
Xứ Huế vốn nổi tiếng với nhiều loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, trong đó có ca Huế. Một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về ca Huế là “Ca Huế trên sông Hương” của tác giả Hà Ánh Minh.
Mở đầu bài viết, tác giả đã khẳng định rằng xứ Huế nổi tiếng với nhiều điệu hò. Tác giả còn phân tích giá trị, nét độc đáo của các các điệu hò: từ ngữ địa phương nhuần nhuyễn, diễn tả ý tình trọn vẹn. Tiếp đến, nhà văn khắc họa khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương đầy mơ mộng và huyền ảo: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục”. Tác giả tự ví mình giống như một người lữ khách bước xuống con thuyền rồng để thưởng thức ca Huế. Nhà văn đã miêu tả chi tiết về nhạc cụ, nhạc công và cách thức biểu diễn: “Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Các ca công mặc áo dài, đội khăn xếp, khăn đóng. Các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác thương cảm, bi ai, vương vấn…”.
Tiếp đến, nhà văn còn làm rõ nguồn gốc của ca Huế: “Ca Huế được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình đem lại cho ca Huế nét đặc sắc riêng thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục…”. Xen vào đó là những câu văn cảm nhận của tác giả về giai điệu của ca Huế: “ Đấy là lúc các ca nhi cất lên những khúc điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân. Cũng có bản nhạc mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh. Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán… Lời ca thong thả, trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch. ”. Những lời nhận xét rất tinh tế, thể hiện sự am hiểu sâu sắc về ca Huế.
Như vậy, qua văn bản, có thể khẳng định rằng ca Huế là một hình thức sinh hoạt văn hóa - âm nhạc thanh lịch và tao nhã, một sản phẩm tinh thần đáng trân trọng và bảo tồn.