Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do Dàn ý & 14 đoạn văn mẫu lớp 8

Tài liệu Bài văn mẫu lớp 8: Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do, được Eballsviet.com giới thiệu.

Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do
Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do

Nội dung bao gồm dàn ý và 14 đoạn văn mẫu lớp 8. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết ngay dưới đây.

Dàn ý đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do

Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do

1. Mở bài

Giới thiệu nhan đề, tác giả và nêu cảm nghĩ chung về bài thơ.

2. Thân bài

- Chỉ ra nội dung hoặc nghệ thuật cụ thể của bài thơ khiến em yêu thích và có nhiều cảm xúc, suy nghĩ.

- Nêu ra các lý do khiến em yêu thích (nội dung, nghệ thuật của bài thơ…)

3. Kết bài

Khẳng định lại cảm nghĩ về bài thơ và ý nghĩa của bài thơ.

Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do lớp 8

Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do

Mẫu 1

Ta đi tới của Tố Hữu là một bài thơ mà tôi rất thích. Tác phẩm được sáng tác vào tháng 8 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Trước niềm vui chiến thắng, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ như một tiếng reo vui. Mở đầu, tác giả đã nhìn lại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp “ba ngàn ngày không nghỉ”. Hình ảnh trung tâm “ta đi” cùng với đó là một loạt các địa danh đã được liệt kê nhằm cho thấy niềm vui chiến thắng đã toản khắp mọi miền đất nước. Những câu thơ tiếp theo, giọng thơ tạm lắng đọng khi tác giả đưa người đọc trở về với miền kí ức xưa. Trang sử của dân tộc Việt Nam hiện lên với tấm lòng lòng kiên trung, bất khuất của nhân dân Việt Nam đã làm tan tác những bóng thù hắc ám. Nhà thơ còn nhắc nhở mỗi con người chúng ta dù có đi đâu thì chúng ta vẫn là “con một cha, nhà một nóc” và dòng máu Việt Nam vẫn chảy trong tim, ta vẫn luôn là “dân Cụ Hồ”. Tóm lại, Ta đi tới là một bài thơ giàu ý nghĩa, gửi gắm thông điệp giá trị đến mỗi người đọc.

Mẫu 2

Tôi rất thích bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do, từ đó góp phần thể hiện nội dung cũng như diễn tả cảm xúc của nhân vật trữ tình. Đọc những câu thơ đầu, tôi cảm thấy ấn tượng với không gian diễn ra cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật trữ tình với “em”. Đó là giữa rừng Trường Sơn “lộng gió”, “rừng lạ ào ào lá đỏ”, “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Các hình ảnh vẽ lên khung cảnh rừng Trường Sơn khoáng đạt, gợi ấn tượng vừa lãng mạn. Bốn câu thơ tiếp theo là hình ảnh con đường Trường Sơn mùa ra trận. Đặc biệt nhất có lẽ là hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong được khắc họa chân thực. Cách gọi “em gái tiền phương” nghe thật gần gũi, nhưng cũng đầy sự trân trọng. Tôi cảm nhận được vẻ đẹp vừa thân thương, gần gũi, giản dị; vừa dũng cảm, kiên cường, vững vàng khi làm nhiệm vụ. Tiếp đến, hình ảnh đoàn quân trên đường ra tiền tuyến đã gợi lên không khí hào hùng, thần tốc trong khung cảnh “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Hai câu thơ cuối của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước ta thống nhất. Hai câu cuối là lời hứa hẹn về ngày trở lại khi đất nước đã giành được độc lập. Bài thơ “Lá đỏ” là một bài thơ giàu ý nghĩa.

Mẫu 3

Bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Trước hết, khi đọc bài thơ, tôi có thể hình dung ra hình con chim chào mào được khắc họa trong thực tế. Những câu thơ mở đầu cho thấy vị trí “trên cây cao chót vót” cùng với đó là những đặc điểm của loài chim chào mào - “đốm trắng, mũ đỏ”; tiếng kêu “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Tác giả sử dụng bút pháp tả thực nhằm tạo nên một bức tranh thiên nhiên ngập tràn màu sắc, âm thanh. Tiếp đến, Mai Văn Phấn đã xây dựng hình ảnh con chim chào mào trong suy nghĩ của nhân vật trữ tình - “tôi”. Ở đây, “tôi” đã vẽ lên một chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi. Hình ảnh “chiếc lồng” được đan dệt bằng trí tưởng tượng. Qua đó, chúng ta mới thấy được cái khao khát muốn độc chiếm cái đẹp của thiên nhiên. Nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Hành động “tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây” - đó là khao khát muốn ôm trọn không gian thiên nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên. Không gian đầy “nắng, cây, gió” hiện lên với mong muốn níu giữ con chim và tiếng hót. Nhưng lại “vô tăm tích” - cụm từ cho thấy sự vô thủy, vô chung của thiên nhiên, vũ trụ. Từ đó mà “tôi” phải tự mình tưởng tượng ra hình ảnh con chim chào mào đang mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước. Hai câu thơ cuối cho thấy con chim đã bay xa. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim vẫn còn đó. Nhân vật “tôi” vẫn cảm nhận được sự hiện diện của con chim chào mào. Tác giả đã cho chúng ta hiểu được rằng tình yêu thiên nhiên vẫn hiện hữu dù ở bất cứ nơi đâu. Bài thơ Con chào mào gửi gắm cho người đọc về tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.

Mẫu 4

Một trong những bài thơ hay viết về tình mẫu tử có thể kể đến “Mây và sóng” của Ta-go. Nhân vật trữ tình của bài thơ là một em bé. Em đang kể lại cho mẹ nghe về cuộc trò chuyện của mình với người “trên mây” và “trong sóng”. Bởi vậy, bài thơ mang giọng điệu hồn nhiên, vui tươi. Những câu thơ đã thể hiện điều đó như: “Mẹ ơi, trên mây có người gọi con”, “Trong sóng có người gọi con”. Với em bé, thế giới của người “trên mây” và “trong sóng” mang vẻ kì diệu, rất hấp dẫn. Ở đó, các bạn sẽ được dạo chơi từ lúc thức dậy cho đến lúc hoàng hôn, được khám phá những điều kỳ thú trên bầu trời, hay dưới mặt biển. Bởi vậy, em bé rất tò mò, mong được trải nghiệm: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Câu hỏi trên giúp chúng ta hiểu được khao khát khám phá của trẻ thơ. Dù ham chơi, thích khám phá nhưng khi nghe câu trả lời của người “trên mây” hay “trong sóng”, em bé đã kiên quyết từ chối: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Có thể thấy, tình cảm yêu thương của em bé dành cho người mẹ, cũng như mong muốn luôn ở bên mẹ của em bé thật rõ ràng. Và rồi, chính em bé đã nghĩ ra một trò chơi thật kì diệu có thể thực hiện cùng với mẹ. Dù ở bất cứ nơi đâu, em bé vẫn muốn ở cùng với mẹ. Bài thơ được viết theo kiểu thơ tự sự, không bị ràng buộc bởi luật thơ, cách gieo vần. Âm điệu nhịp nhàng, hình ảnh giàu tính biểu tượng, ngôn ngữ cô động đã góp phần khiến cho bài thơ giàu cảm xúc hơn. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử chân thành, giản dị mà đẹp đẽ đến chừng nào. Mây và sóng chính là một trong những bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích.

Mẫu 5

Đến với bài thơ “Con là…”, tác giả Y Phương đã giúp người đọc có những cảm nhận sâu sắc về tình cảm gia đình. Người cha trong bài đã gửi gắm lời nhắn nhủ với đứa con bé bỏng, từ đó thể hiện tình yêu thương sâu sắc. Cụm từ “Con là” được nhắc lại ở đầu mỗi khổ thơ để khẳng định tầm quan trọng của đứa con đối với người cha. Khi con là “nỗi buồn”, thì dù nỗi buồn đó có to lớn bằng trời nhưng vì có con, nỗi buồn đó cũng được xua tan đi. Khi con là “niềm vui”, thì dù niềm vui đó có nhỏ bé như hạt vừng, nhưng vì có con, niềm vui đó lại trở nên thật mãnh liệt, và tồn tại vĩnh cửu. Con còn là “sợi dây hạnh phúc” giúp cha và mẹ trở nên gắn bó, thấu hiểu hơn. Trong cuộc đời nhiều biến động, đôi lúc vô tình cha và mẹ dần xa nhau, nhưng nhờ có con là kết nối mà cha mẹ lại trở nên gắn kết hơn. Sợi dây hạnh phúc nơi con dù “mảnh hơn cả sợi tóc” nhưng lại bền chặt hơn tất thảy, đưa cha mẹ về với những yêu thương ban đầu. Như vậy, tình cảm của cha dành cho con được thể hiện một cách sinh động. Đó là tình yêu thương lớn lao, nhưng bình dị. Con có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người cha, cũng là mối liên kết không thể mất đi của cha và mẹ.

Mẫu 6

Bài thơ “Ta đi tới” của Tố Hữu đã gợi cho tôi nhiều cảm nhận. Tác giả đã sáng tác bài thơ vào tháng 8 năm 1954 - thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, chính niềm vui chiến thắng lan tỏa đến khắp mọi miền tổ quốc đã gợi nguồn cảm hứng thơ ca cho tác giả. Nhìn lại chặng đường cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp “ba ngàn ngày không nghỉ” nhà thơ đã bộc lộ cảm xúc sung sướng, tự hào khi giành được chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc. Hình ảnh trung tâm của bài thơ “ta đi” kết hợp với một loại các địa danh được xuất hiện đã góp phần thể hiện tình cảm của tác giả một cách sinh động hơn, đó là niềm vui chiến thắng đã lan tỏa trên khắp mọi miền của tổ quốc. Khi đọc bài thơ, người đọc dường như cũng vui lây niềm vui của lúc bấy giờ. Tố Hữu giống như một người hướng dẫn viên du lịch, đưa người đọc trở về với miền kí ức xưa. Lịch sử đã ghi dấu dân tộc Việt Nam với lòng kiên trung, bất khuất đã làm tan tác những bóng thù hắc ám, đổ bao nhiêu giọt mồ hôi nước mắt để đổi lại nền độc lập cho Tổ quốc. Không chỉ vậy, tác giả còn gửi gắm lời nhắc nhở mỗi con người chúng ta dù có đi đâu thì chúng ta vẫn là “con một cha, nhà một nóc”. Dù có như thế nào thì dòng máu con người Việt Nam vẫn chảy trong tim, ta vẫn luôn là “dân Cụ Hồ”, phải sống sao cho xứng đáng với cội nguồn đó.

Mẫu 7

“Một con mèo nằm ngủ trên ngực tôi” của nhà thơ Anh Ngọc là một bài thơ thú vị. Khi đọc bài thơ, người đọc đã cảm nhận được tình cảm yêu mến, trân trọng của nhân vật “tôi” dành cho con mèo của mình. Mở đầu, tác giả đã khắc họa hình ảnh con mèo đang nằm ngủ trên ngực của “tôi” hiện lên đầy sinh động qua các chi tiết: “đôi mắt biếc trong veo, hàm răng nhọn hoắt, móng vuốt khép lại, ngủ như đứa trẻ giữa vòng tay ấp ủ”. Tác giả đã có một so sánh thật độc đáo, hình ảnh con mèo nằm ngủ trên ngực giống như một đứa trẻ, đang nằm ngủ say giấc. Qua đó, người đọc cảm nhận được vẻ đáng yêu, ngộ nghĩnh của con mèo. Và tâm trạng của nhân vật “tôi” trước hình ảnh này là niềm hạnh phúc, tràn ngập tình yêu thương dành cho con mèo của mình: “Trái tim tôi trong một phút bỗng mềm đi/Một nỗi gì lâng lâng như hạnh phúc”. Câu thơ sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhằm diễn tả cảm xúc của nhân vật “tôi” lúc này, trái tim trở nên mềm mại, tan chảy trước vẻ đáng yêu con mèo. Đến khổ cuối, tác giả đã sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ điệp ngữ “ngủ đi” cùng với hoán dụ (đôi tai vểnh ngây thơ, cái đuôi dài bướng bỉnh, hàng ria mép ngang tàng, đôi mắt biếc trong veo - chỉ con mèo) và ẩn dụ (con hổ con kiêu hãnh) nhằm diễn tả sinh động vẻ đẹp hình thể và tính cách của con mèo, gợi liên tưởng thú vị sâu sắc cho người đọc. Đọc bài thơ, chúng ta có những cảm xúc thật đẹp đẽ, cũng như rút ra được bài học cẩn phải sống yêu thương các loài động vật hơn.

Chọn một bài thơ tự do mà em yêu thích viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ của em về bài thơ đó

Mẫu 1

“Ta đi tới” là một bài thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu. Tác giả sáng tác bài thơ vào tháng 8 năm 1954 nhằm ca ngợi chiến thắng lừng lẫy của dân tộc và suy nghĩ, trăn trở về tương lai đất nước trong trang sử mới. Đất nước trong con mắt của mỗi người được cảm nhận bởi nhiều mạch cảm xúc khác nhau. Và với Tố Hữu cũng vậy, tác giả đã lật qua hàng ngàn trang lịch sử của đất nước để ta thấy được đất nước ngày này đẹp đẽ thế nào. Hàng loạt những con đường cách mạng được gọi tên từ phía bắc nơi đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, Tây Bắc, Điện Biên…, đó là những con đường từng in hằn dấu chân của những người chiến sĩ nay đã “mới tinh khôi màu đất đỏ tươi”. Đất nước yên bình quả thật làm cho trái tim ta rạo rực, làm cho nhà thơ phải thốt lên rằng: “Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!”. Hay cả một đất nước thời bom rơi đạn nổ cháy cả đồi cây nay đã thành rừng cọ, đồi chè xanh tươi bát ngát khiến người đọc không khỏi đau đớn, xót xa. Tố Hữu ngược dòng cảm xúc bồi hồi nhớ lại kỷ niệm về những ngày tháng chiến đấu quả cảm, oai hùng. Dân tộc ta với lòng kiên trung, bất khuất đã làm tan tác những bóng thù hắc ám, đổ bao nhiêu giọt mồ hôi nước mắt để đổi lại nước Việt Nam độc lập. Những câu thơ cuối chứa đựng đầy suy tư của nhà thơ khẳng định lại tinh thần kiên trung, bất diệt của dân tộc ta khi đối mặt với kẻ thù hung bạo và tấm lòng thủy chung của con em dân tộc Việt Nam chung một mái nhà. Bài thơ “Ta đi tới” quả là một tác phẩm hay, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Mẫu 2

Một trong những bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích nhất là “Những cánh buồm” của Hoàng Trung Thông. Bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do với những hình ảnh giản dị mà vô cùng đẹp đẽ. Trong những câu thơ mở đầu, tác giả đã khắc họa một không gian khoáng đãng của biển cả, với ánh mắt trời rực rỡ. Hình ảnh người cha và đứa con bước đi trên cát cho thấy sự gắn bó, gần gũi. Cha bỗng trở nên già dặn hơn, tuổi đời như trải dài trong chiếc bóng dài lênh khênh. Còn con thì lại trở nên thật bé bỏng, đáng yêu trong chiếc bóng tròn chắc nịch. Hai hình ảnh đối lập giữa “bóng cha” và “bóng con” thật ngộ nghĩnh, dễ thương nhưng cũng góp phần khắc họa được sự khác biệt của hai thế hệ cha - con. Khi người con nhìn về phía chân trời và hỏi cha rằng ở đó có những gì. Câu trả lời của người cha đã khơi gợi trí tò mò của đứa trẻ về một thế giới mà ngay cả người lớn như cha của mình vẫn chưa hề đi đến. Điều đó làm nhân vật con khao khát được khám phá, vì vậy mà con đã mong muốn cha mượn một cánh buồm “trắng” để con đi. Người con muốn đi khắp nơi, muốn chinh phục thế giới rộng lớn ngoài kia. Nghe thấy lời đề nghị của con, người cha đã bắt gặp chính mình trong ước muốn đó. Vậy là, giờ đây, ước mơ chưa thể thực hiện của cha sẽ được gửi gắm nơi con. Có lẽ mỗi bạn đọc đều sẽ bắt gặp được hình ảnh của bản thân trong nhân vật người con. Bài thơ Những cánh buồm thể hiện niềm tự hào của người cha khi thấy con mình cũng ấp ủ những ước mơ cao đẹp. Qua đó, tác giả còn ca ngợi ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ - đó là những ước mơ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Như vậy, “Những cánh buồm” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay về ngôn từ, âm hưởng và có sức gợi cảm.

Mẫu 3

Khi đọc bài thơ “Con là…” của Y Phương, tôi cảm thấy vô cùng xúc động và yêu thích. Tác giả sử dụng giọng thơ nhẹ nhàng, những hình ảnh giản dị nhưng lại chan chứa biết bao yêu thương. Điệp ngữ “Con là” ở đầu mỗi khổ thơ muốn nhấn mạnh được vai trò của đứa con. Dù là “nỗi buồn” có to lớn bằng “trời” thì cũng sẽ được lấp đầy, vơi dần đi. Dù là “niềm vui” chỉ bé nhỏ như “hạt vừng” thì cũng sẽ luôn tồn tại, hiện hữu mãi trong ngôi nhà yêu thương. Đặc biệt nhất, con chính là “sợi dây hạnh phúc” gắn kết mối quan hệ giữa cha và mẹ, để gia đình mãi luôn ấm yên, hạnh phúc. Bài thơ đã giúp chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Bài thơ ngắn nhưng để lại dư âm to lớn với người đọc, nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Mẫu 4

“Ta đi tới” là một bài thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu. Tác giả sáng tác bài thơ vào tháng 8 năm 1954 nhằm ca ngợi chiến thắng lừng lẫy của dân tộc và suy nghĩ, trăn trở về tương lai đất nước trong trang sử mới. Đất nước trong con mắt của mỗi người được cảm nhận bởi nhiều mạch cảm xúc khác nhau. Và với Tố Hữu cũng vậy, tác giả đã lật qua hàng ngàn trang lịch sử của đất nước để ta thấy được đất nước ngày này đẹp đẽ thế nào. Hàng loạt những con đường cách mạng được gọi tên từ phía bắc nơi đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, Tây Bắc, Điện Biên…, đó là những con đường từng in hằn dấu chân của những người chiến sĩ nay đã “mới tinh khôi màu đất đỏ tươi”. Đất nước yên bình quả thật làm cho trái tim ta rạo rực, làm cho nhà thơ phải thốt lên rằng: “Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!”. Hay cả một đất nước thời bom rơi đạn nổ cháy cả đồi cây nay đã thành rừng cọ, đồi chè xanh tươi bát ngát khiến người đọc không khỏi đau đớn, xót xa. Tố Hữu ngược dòng cảm xúc bồi hồi nhớ lại kỷ niệm về những ngày tháng chiến đấu quả cảm, oai hùng. Dân tộc ta với lòng kiên trung, bất khuất đã làm tan tác những bóng thù hắc ám, đổ bao nhiêu giọt mồ hôi nước mắt để đổi lại nước Việt Nam độc lập. Những câu thơ cuối chứa đựng đầy suy tư của nhà thơ khẳng định lại tinh thần kiên trung, bất diệt của dân tộc ta khi đối mặt với kẻ thù hung bạo và tấm lòng thủy chung của con em dân tộc Việt Nam chung một mái nhà. Bài thơ “Ta đi tới” quả là một tác phẩm hay, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Mẫu 5

Bài thơ “Con là…” của Y Phương đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc của người cha dành cho đứa con của mình. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “Con là” để nhấn mạnh vai trò của con đối với cha trong cuộc sống. Khi con là “nỗi buồn”, dù có to lớn bằng “trời” thì nhờ có con thì mọi nỗi buồn cũng sẽ được lấp đầy. Khi con là niềm vui, dù chỉ nhỏ bé như “hạt vừng” thì niềm vui ấy lúc nào cũng hiện hữu trong ngôi nhà ấm áp. Đó là những niềm vui bất tận và vĩnh cửu của cha. Đặc biệt nhất, con chính là “sợi dây hạnh phúc” gắn kết cha và mẹ. Trong cuộc sống có nhiều sóng gió, nhưng nhờ có con mà cha và mẹ sẽ luôn ở bên nhau, cùng nhau bảo vệ và che chở con. Có thể thấy rằng, đối với người cha, con là những điều vừa to lớn, vừa nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa thật lớn lao. Với giọng thơ chân thành và tha thiết, chúng ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Lời nhắn nhủ yêu thương cũng chính là bài học đầu đời để con khắc ghi, trân trọng tình cảm gia đình.

Mẫu 6

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Mở đầu, tác giả đã cho người đọc thấy được xuất thân cũng như quá trình hình thành tình đồng chí. Nếu như anh đến từ vùng quê “nước mặn đồng chua”, thì tôi cũng đến từ ngôi làng “đất cày lên sỏi đá”. Đây đều là những hình ảnh khắc họa nên những vùng đất khắc nghiệt, không thể trồng trọt. Những con người đến từ những vùng đất xa lạ đó, tưởng chừng như khó có thể gặp gỡ vậy mà họ “tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Vì những con người ấy cùng chung một lý tưởng: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nhưng không chỉ vậy, những người lính ấy còn chung một tấm lòng sẻ chia khó khăn gian khổ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Nếu chưa từng trải qua cái lạnh giá của buổi đêm trong rừng sâu, chắc sẽ không thể hiểu được khó khăn của những người lính hiện tại. Nhưng không chỉ thiên nhiên khắc nghiệt, họ còn thiếu thốn về vật chất, đến tấm chăn mỏng manh phải san sẻ cho nhau. Chính vì vậy, chúng ta mới thấy được tình cảm gắn bó “tri kỷ” của những người đồng đội. Họ thấu hiểu và chia sẻ cho nhau từ những điều nhỏ nhất, giống như những người thân trong một gia đình vậy. Hai tiếng: “Đồng chí!” cất lên nghe đầy trân trọng và yêu mến. Những câu thơ tiếp theo, Chính Hữu đã cho người đọc thấy rõ những biểu hiện của tình đồng chí. Họ cùng nhau chia sẻ những trăn trở, thiếu thốn. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, cuộc sống của người lính thiếu thốn đủ điều: áo rách, quần vá, chân không giày, những cơn sốt rét rừng, cái lạnh buốt của đêm trong rừng đã hành hạ họ. Nhưng trong khó khăn ấy, vẫn ấm áp tình đồng đội: “Thương nhau tay nắm bàn tay”. Hơi ấm từ đôi bàn tay, ở tấm lòng đã sưởi ấm cái giá lạnh. Cặp từ “anh” với “tôi” luôn sóng đôi cho thấy sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng chí đồng đội. Khổ thơ cuối cùng như một cái kết đẹp cho tình đồng đội, đồng chí. Hình ảnh rừng vào buổi đêm vắng vẻ, lạnh giá và thật khắc nghiệt với “sương muối”. Nhưng người lính vẫn đứng đó, bên nhau để “chờ giặc tới” - một tâm thế chủ động đối mặt với cuộc chiến. Dù khó khăn, gian khổ luôn cận kề thì người lính vẫn không chịu khuất phục. Tình cảm đồng chí đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong cuộc chiến. Câu thơ cuối cùng gợi lên một hình ảnh thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” đi cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời của người lính. Bên cạnh hình ảnh tả thực, nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đồng đội tồn tại bất diệt trong những năm kháng chiến gian khổ. Có thể khẳng định, Đồng chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Chính Hữu.

Mẫu 7

“Những cánh buồm” là bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích nhất. Trong những câu thơ mở đầu, Hoàng Trung Thông đã khắc họa một không gian khoáng đãng của biển cả, với ánh mắt trời rực rỡ. Hình ảnh người cha và đứa con bước đi trên cát cho thấy sự gắn bó, gần gũi. Cha bỗng trở nên già dặn hơn, tuổi đời như trải dài trong chiếc bóng dài lênh khênh. Còn đứa con thì lại trở nên thật bé bỏng, đáng yêu trong chiếc bóng tròn chắc nịch. Hình ảnh đối lập của bóng cha và bóng con thật ngộ nghĩnh, dễ thương càng khắc sâu thêm sự khác biệt của hai thế hệ cha - con. Khi nhìn về phía chân trời, đứa trẻ đã hỏi cha răng ở đó có những gì. Câu trả lời của người cha đã khơi gợi trí tò mò của đứa trẻ về một thế giới mà ngay cả người lớn như cha của mình vẫn chưa hề đi đến. Điều đó làm con khao khát được khám phá, vì vậy mà con đã mong muốn cha mượn một cánh buồm “trắng” để con đi. Người con muốn đi khắp nơi, muốn chinh phục thế giới rộng lớn ngoài kia. Và cha đã bắt gặp chính mình trong ước muốn của con. Vậy là, giờ đây, ước mơ chưa thể thực hiện của cha sẽ được gửi gắm nơi con. Bài thơ “Những cánh buồm” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay về ngôn từ, âm hưởng và có sức gợi cảm.

Chia sẻ bởi: 👨 Tiểu Thu
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Tìm thêm: Văn mẫu lớp 8
Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm