Thuyết minh về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học lớp 11
Văn mẫu lớp 11: Thuyết minh về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du mang đến bài văn mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo dễ nắm bắt kiến thức của tác phẩm rèn luyện kĩ năng viết văn thuyết minh ngày một tốt hơn.
Thuyết minh bài thơ Độc Tiểu Thanh kí người đọc không khỏi suy tư về số phận nàng Tiểu Thanh và còn hiểu ra rằng sứ mệnh của người đọc là phải hiểu, đồng cảm, tri âm với tác giả. Qua bài văn mẫu này còn giúp các bạn biết cách làm bài văn thuyết minh về một tác phẩm văn học. Bên cạnh bài thuyết minh tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí các bạn xem thêm dàn ý thuyết minh về tác phẩm văn học.
Thuyết minh bài thơ Độc Tiểu Thanh kí
Dàn ý thuyết minh Đọc Tiểu Thanh kí
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du: Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm.
- Giới thiệu về “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí): Đọc Tiểu Thanh kí là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du, thể hiện cảm xúc, suy tư của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, qua đó giúp chúng ta có cảm nhận sâu sắc về tấm lòng nhân đạo của ông.
2. Thân bài
a. Hai câu đề
- Là một cảm nhận trực tiếp về cảnh vật ở Tây Hồ.
- Có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại.
+ Quá khứ : Đẹp, phát triển, tươi tốt ( hoa uyển) vườn hoa.
+ Hiện tại : Thành gò hoang, bãi hoang, lụi tàn, buồn vắng, thê lương.
=> Câu thơ nhói lên nỗi buồn thương nhân tình thế thái; sự biến đổi của cảnh vật trong dòng chảy thời gian.
- Giống như cảnh đẹp Tây Hồ, cuộc đời của Tiểu Thanh cũng bị huỷ hoại, chỉ còn một vài bài thơ may mắn sót lại. Nhà thơ nuối tiếc, xót xa cho cảnh đẹp của Tây Hồ nay đã thành “bãi hoang” nhưng thực chất là sự xót xa, tiếc nuối cho Tiểu Thanh - người con gái tài sắc mà bạc mệnh.
- Phần dịch thơ đã đánh mất hai chữ “nhất” trong “nhất chỉ thư” và chữ “độc” trong “độc điếu” làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ.
=> Thực ra, “nhất” là một mà “độc” cũng là một, nhưng nếu “nhất” là số từ chỉ số lượng thì “độc” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà thơ. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn, bất hạnh => sự đồng cảm của Nguyễn Du.
=> Hai câu đề đã mở ra ngoại cảnh và tâm cảnh. Đó là cái khoảnh khắc, suy nghĩ, cảm nhận khi gặp gỡ một con người, một số mệnh.
b. Hai câu thực
- Chi phấn: đồ trang sức của phụ nữ
- Thần: là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của nàng Tiểu Thanh.
- Vô mệnh: không có số mệnh
- Phần dư: phần thơ, phần còn sót lại không bị đốt của nàng Tiểu Thanh.
- Son phấn: sắc đẹp
- Văn chương: tài hoa
=> Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh – một con người toàn diện.
- Son phấn – chôn / Văn chương – đốt: chôn, đốt là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả với nàng Tiểu Thanh => thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.
=> Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân,...cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
=> Bên cạnh triết lí đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng (vẫn hận, còn vương).
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc, vì tài mà bị hủy hoại.
c. Hai câu luận
- “ Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp -> mối hận của những người tài hoa bạc mệnh
=> Câu thơ mang tính chất khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà là của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.
- “Thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được => câu thơ thể hiện sự đau đớn, phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc (bởi vậy nên thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ giữa tài tử giai nhân).
- Kì oan: nỗi oan lạ lùng
- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa, mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.
d. Hai câu cuối
- Sử dụng câu hỏi tu từ => Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình. Nguyễn Du như muốn nói với Tiểu Thanh, hôm nay ta khóc nàng cách ta ba trăm năm. Ba trăm năm sau, ai là người khóc ta? Một câu hỏi da diết, câu hỏi lớn, đậm chất nhân văn. Nguyễn Du hỏi Tiểu Thanh mà như hỏi người, hỏi chính mình.
- Khấp (Khóc): tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt, không kìm nén được.
- Chữ “khấp” mà Nguyễn Du sử dụng trong câu thơ cuối rất tinh tế. Nó cụ thể hóa chữ “điếu” (viếng) ở câu thơ thứ 2. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc cho ông.
=> Thể hiện nỗi cô đơn của của người nghệ sĩ. Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.
=> Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:Thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
Thuyết minh bài thơ Đọc tiểu Thanh kí
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một loạt bài viết về các nhân vật lịch sử mà ở đó nhà thơ gửi gắm rất nhiều tâm sự. Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ như thế. Bằng tiếng nói tri âm sâu sắc với một người con gái sống cách mình hơn 300 năm, Nguyễn Du muốn bày tỏ nhiều tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh hiện tại và vượt thời gian, mang dự cảm của mình tới 300 năm sau để tìm tri âm.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, tài hoa, nhan sắc nhưng phận bạc. Nàng sống một cuộc đời ngắn ngủi đầy trái ngang. Di cảo còn sót lại của Tiểu Thanh với những vần thơ bị đốt dở là bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy, mà người đa cảm như Nguyễn Du khi đọc nó đã không thể cầm lòng. Nỗi “thổn thức” đã khiến thi nhân viết nên những dòng tuyệt tác trong Đọc Tiểu Thanh kí.
Trước hết Độc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Nguyễn Du. Bài thơ đã mở ra bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến thiên dâu bể của cuộc đời:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang.
Cảnh đẹp trước đây (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ xuất phát từ một thành ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành nương dâu). Dẫu biết rằng: sinh - hoá, trụ - diệt,... vốn là lẽ thường, vốn là quy luật sao vẫn thấy có gì xót xa? Nhất là nơi ấy lại gắn với cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh, một cuộc đời gợi bao nỗi cảm thương qua những vần thơ cháy dở.
Độc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai đã hé mở: trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc, một mình viếng người đã khuất (độc điếu) qua một tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại. Người chết cô đơn mà người viếng cùng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau. Câu thơ với cách nói hàm súc đã vượt qua thời gian và sinh tử để tri âm.
Hai câu thơ tiếp vươn rộng tới nhiều lớp nghĩa:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
“Son phấn” là biểu tượng của sắc đẹp, còn “văn chương” là bằng chứng của tài năng. Cái đẹp, cái tài ở đời là bất tử, là không có số mệnh, vậy mà vẫn bị “liên tử hậu”, “lụy phần dư”, vẫn luôn bị chà đạp phũ phàng, nghiệt ngã. Cuộc đời này quả là nhiều bất công, ngang trái.
Hận cho số kiếp Tiểu Thanh, hận cho muôn đời, muôn người. Trong cái hận của Tiểu Thanh có cái hận của muôn người và của bản thân nhà thơ. Thương người và thương mình. Nỗi hận, nỗi đau thương ấy thật khó mà hỏi trời (Cổ kim hận sự thiên nan vấn) đành ôm trọn vào lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ là một kết luận mang tính chất triết lí thấm đẫm nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn tại sao Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh mà lại da diết đến thế? Nguyễn Du khóc cho người cũng là khóc cho mình đó thôi.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi niềm trăn trở, dự cảm nhói buốt, cứ day cứa mãi vào tâm trạng người đọc các thế hệ:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
“Ba trăm năm lẻ” là một con số ước lệ chỉ mai sau khi nhà thơ đã chết cũng như hơn ba trăm năm sau cái chết của Tiểu Thanh vậy. Mai sau liệu có ai khóc cho Tố Như, cùng Tố Như khóc cho mỗi kiếp người dâu bể? Bài thơ với hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố Như” ) đã hé mở một cái “tôi” đang cô đơn đến tột độ, một cái “tôi” tự thương, tự đau. Nguyễn Du thương cho người xưa (quá khứ), thương cho mình và nhiều con người bất hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho người sau phải khóc mình nữa (tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc về kiếp người.
Hãy cứ đọc trực tiếp bài thơ từ phiên âm chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu réo rắt đau thương cố kìm, cố nén của nó ta sẽ chạm được phần nào tới tiếng lòng của thi nhân. Bài thơ vượt lên cả những bản ai điếu thông thường bởi Nguyễn Du đâu chỉ viếng mộ cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn cả đến hậu thế. Phải thật tinh, thật sâu mới hiểu và cảm được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ bởi với thiên tài của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc cao độ, mỗi từ đều có độ nén, sức nặng và sức bật để tạo nên những cộng hưởng trong lòng người.
Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều thứ nhưng những bài thơ được chất ra từ máu và nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được luyện bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du chắc chắn thời gian càng giúp thi phẩm đứng vững trong lòng người.