Văn mẫu lớp 11: Nhập vai Bê-li-cốp để kể lại truyện ngắn Người trong bao Người trong bao của A.P.Sê-khốp
Văn mẫu lớp 11: Nhập vai Bê-li-cốp để kể lại truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp bằng ngôi thứ nhất là một câu hỏi rất hay nằm trong chương trình Ngữ văn 11 tập 2.
Đóng vai Bê-li-cốp để kể lại truyện ngắn Người trong bao bằng ngôi nhất mang đến 2 câu trả lời hay nhất. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi kiến thức để nhanh chóng biết cách nhập vai vào nhân vật để lại câu chuyện. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn phân tích truyện ngắn Người trong bao.
Nhập vai Bê-li-cốp để kể lại truyện ngắn Người trong bao
Nhập vai Bê-li-cốp để kể lại Người trong bao ngắn gọn
Tôi là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp cổ. Tôi thấy sợ thế giới bên ngoài nên đi đâu tôi cũng luôn mặc kín bưng, tôi thích nhét các vật dụng như đồng hồ, ô... vào trong bao. Khi tới nhà đồng nghiệp hay bạn bè, tôi thường ngồi nhìn mọi vật xung quanh, không nói năng gì rồi ra về. Tôi thích ngủ kín mít chăn, đóng kín cửa, tôi cũng không thích giao du với hàng xóm. Tôi cảm thấy khó chịu khi ai đó vẽ tranh châm biếm tôi và Va-ren-ca người phụ nữ tôi yêu thương nên tôi kể với Co-va-len-ca. Tôi nghĩ cần sống đúng theo chỉ thị, hành xử phải thận trọng, cẩn thận. Tôi thấy kinh khủng khi Va-ren- ca là con gái mà đạp xe, nên tôi góp ý với em cô ấy. Không ngờ thằng bé xô tôi ngã nhào xuống cầu thang, đúng lúc đó Va-ren-ca trở về nhìn thấy tôi thì phá lên cười, tôi thấy xấu hổ vô cùng.
Nhập vai Bê-li-cốp để kể lại Người trong bao
Tôi là Bê-li-cốp, giáo viên dạy tiếng Hi Lạp cổ ở một trường Trung học tỉnh lẻ. Tôi có thói quen là bất kể thời tiết nóng hay lạnh, trời xấu hay trời đẹp… đều phải mặc áo bành tô cốt bông, đi giày cao su và cầm ô. Mọi vật dụng cần thiết như chiếc đồng hồ quả quýt, cái dao nhỏ để gọt bút chì, thậm chí đến cả cái ô lúc không dùng tôi cũng để trong bao. Vì không thích người ta nhìn thấy mặt mình nên tôi thường hay bẻ đứng cổ áo lên, đeo kính râm và nhét bông vào lỗ tai. Khi ngồi trên xe ngựa, tôi bắt xà ích phải kéo mui lên che cho kín.
Tôi mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh sợ hãi. Tôi luôn luôn giấu mình vào trong một “cái bao” để ngăn cách và tự bảo vệ mình không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống bên ngoài khiến tôi khó chịu và sợ hãi. Điều mà tôi ghê tởm chính là cuộc sống hiện tại, trong khi đó tôi lại thường ca ngợi và tôn thờ quá khứ. Ngôn ngữ Hi Lạp cổ mà tôi dạy cũng là một thứ “bao” vô hình giúp tôi có thể trốn tránh hiện thực đang diễn ra xung quanh.
Trước mọi người, tôi cố giấu kín ý nghĩ của mình. Nếu có đến chơi nhà một giáo viên nào đó, tôi kéo ghế ngồi, đưa mắt nhìn xung quanh một lúc rồi cáo từ. Đó là cách duy trì mối quan hệ với đồng nghiệp mà tôi cho là tốt nhất. Nhưng không hiểu sao giáo viên trong trường không thích gần tôi mà còn có vẻ sợ nữa. Ngay cả ông Hiệu trưởng cũng vậy. Tôi đi đến đâu cũng bị người ta xa lánh. Các bà, các cô tối thứ bảy không dám diễn kịch tại nhà vì sợ tôi biết lại phiền. Giới tu hành khi có mặt tôi thì không dám ăn thịt và đánh bài. Người ta đặt cho tôi biệt danh là “người trong bao” với ý châm biếm, giễu cợt.
Ảnh hưởng của tôi đối với cái tỉnh lẻ này quả là ghê gớm. Sau mười lăm năm tôi dạy học ở đây, mọi người đâm ra sợ tất cả: sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ học chữ, sợ giúp đỡ người nghèo…
Tôi ở cùng nhà với Birkin, cửa phòng đối diện nhau cho nên tôi làm gì, sinh hoạt như thế nào anh ta đều biết hết. Có những điều tôi cho là bình thường thì Birkin lại cho là lạ lùng. Ví dụ: đêm đêm, tôi thường đóng chặt hết cửa lớn cửa nhỏ, không cho gió lọt vào nhà. Lúc ngủ, tôi thường trùm chăn kín đầu, thế mà vẫn cảm thấy rờn rợn, chỉ sợ nhỡ xảy ra việc gì như kẻ trộm chui vào nhà chẳng hạn. Suốt đêm, tôi toàn mơ thấy những chuyện khủng khiếp cho nên sáng sáng đến trường, người cứ mệt mỏi rã rời.
Có một giáo viên trẻ tên là Cô-va-len-cô mới về trường. Chị gái cậu ta khá xinh, tên là Va-ren-ca. Sự xuất hiện của hai chị em đã khuấy động không khí của cái tỉnh lẻ buồn chán này. Tôi để ý tới cô chị và thầm nghĩ mình cũng đã đến lúc phải lấy vợ. Hình như giáo viên trong trường cũng biết điều đó nên họ hay gán ghép tôi với Va-ren-ca. Chuyện bất ngờ xảy ra là không biết kẻ ngỗ nghịch nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm đề dòng chữ Một kẻ tình si rồi gửi cho tôi. Ngay ngày chủ nhật hôm sau, tôi ngạc nhiên đến hoảng hốt khi tận mắt nhìn thấy hai chị em Cô-va-len-cô phóng xe đạp trên đường. Buổi tối, tôi quyết định đến nhà họ nhưng Va-ren-ca đi vắng, tôi đành nói chuyện với cậu em. Tôi tỏ ra không bằng lòng với việc cậu ta đi xe đạp vì cho rằng sẽ nêu gương xấu cho học sinh bắt chước. Cô-va-len-cô mặt đỏ gay, giận dữ bảo tôi rằng: “Việc ta và chị ta đi xe đạp chẳng liên quan gì đến ai cả! Con nào thằng nào thò mũi vào chuyện riêng của nhà ta, ta cho chầu Diêm vương tất!”. Thấy Cô-va-len-cô có thái độ hỗn xược như thế, tôi dọa là sẽ mách ông Hiệu trưởng.
Tưởng cậu ta sợ, ai ngờ cậu ta giận dữ túm cổ tôi đẩy xuống cầu thang. Tôi ngã lăn xuống đất, may mà không việc gì. Chiếc kính râm đeo mắt vẫn còn nguyên. Nhưng cũng chính lúc ấy, Va-ren-ca cùng với hai bà nữa vừa đi đâu về. Với tôi, đó thật là điều kinh khủng hơn cả gãy tay hay gãy cổ, vì tôi đã biến thành trò cười cho thiên hạ. Trước sau gì thì mọi người cũng sẽ biết chuyện này. Chao ôi! Lại sẽ có một bức tranh châm biếm khác. Biết đâu ông Hiệu trưởng lại chẳng ép tôi về hưu?! Nghĩ tới đó, tôi vô cùng sợ hãi. Nhận ra tôi, Va-ren-ca chợt cười phá lên: Ha ha ha! Tiếng cười ấy của cô ta đã chấm dứt ý định cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời tôi.
Tôi lê bước về nhà, lên giường nằm và kéo chăn trùm kín đầu, không muốn nhìn, không muốn nghe bất cứ cái gì của cuộc đời này nữa. Tôi thấm thía nỗi trống trải, cô đơn đang vây phủ quanh mình, ôi, giá mà tôi được chết ngay lúc này! Chiếc quan tài sẽ là cái “bao” vững chắc để tôi chui vào đó và vĩnh viễn không bao giờ ra nữa.