Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 24 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất
TOP 24 bài Cảm nhận về tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
Qua truyện ngắn Chiếc lược ngà, người đọc thấm thía hơn những mất mát hi sinh thầm lặng của người lính, cảm động hơn trước tâm hồn chan chứa yêu thương của người cha dành cho con. Vậy mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây của Eballsviet.com để có thêm vốn từ:
Cảm nhận tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà
- Sơ đồ tư duy cảm nhận về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà
- Dàn ý cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà (3 mẫu)
- Cảm nhận tình phụ tử trong Chiếc lược ngà
- Cảm nhận tình cảm cao đẹp của cha con ông Sáu
- Cảm nhận tình cảm cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh
- Cảm nhận vẻ đẹp tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà và Lão Hạc
- Cảm nhận tình cha con qua truyện ngắn Chiếc lược ngà
- Cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà ngắn gọn
- Cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà (15 mẫu)
- Suy nghĩ về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà
- Viết đoạn văn cảm nhận tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà
Sơ đồ tư duy cảm nhận về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà
Dàn ý cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà
1. Mở bài:
- Giới thiệu truyện ngắn Chiếc lược ngà.
- Giới thiệu về tình cảm cha con trong câu chuyện này.
2. Thân bài:
2.1. Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu:
- Khi chưa nhận ba, bé Thu có nhiều hành động và lời nói xa lánh, cự tuyệt khiến ông Sáu đau lòng.
- Khi nhận ra ông Sáu là ba mình và biết lí do ba có vết sẹo trên mặt, con bé trằn trọc khó ngủ.
- Thái độ của Thu thay đổi trong ngày chia tay:
- Đứng im lặng, nép sang một bên trong khi ông Sáu chào tạm biệt mọi người.
- Gọi thét lên "ba".
- Chạy tới ôm lấy cổ ba, hôn cùng khắp.
- Quấn quýt không muốn ba đi.
=> Tình yêu thương ba bùng nổ mãnh liệt, không thể kìm nén khiến cho mọi người xúc động.
2.2. Tình cảm của ông Sáu dành cho con:
- Khi mới gặp con, anh háo hức, mong chờ.
- Những ngày ở nhà, anh Sáu thất vọng, đau khổ khi dùng mọi cách mà con vẫn không chịu gọi "ba".
- Trong bữa cơm, anh Sáu lỡ tay đánh con vì tức giận nhất thời.
- Cảm động, rơi nước mắt vì tình cảm của con trong buổi chia tay.
- Về đơn vị, anh rất day dứt, ân hận vì đã lỡ đánh con
- Dành hết tâm trí, nỗi nhớ thương của mình để làm chiếc lược ngà tặng con
3. Kết bài:
- Nêu lên cảm nhận của em về tình cha con qua truyện ngắn Chiếc lược ngà.
....
Cảm nhận tình phụ tử trong Chiếc lược ngà
Điều kỳ diệu của văn chương đâu chỉ là tái hiện lại cuộc đời mà còn mở ra trong lòng người một thế giới của tình yêu. Câu chuyện của văn chương là câu chuyện của sự rung động bắt đầu từ nhà văn truyền đến độc giả thông qua sợi dây đồng cảm. Đọc Chiếc lược ngà, chúng ta day dứt mãi với tiếng gọi nấc nghẹn của một đứa con khi gặp gỡ cha mình lần đầu cũng là lần cuối. Tình phụ tử thiêng liêng đặt trong chiến tranh lại càng éo le, càng thấm thía. Bằng ngòi bút đôn hậu mang đậm hơi thở của nhân dân Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng đã đưa nhân vật của mình vượt qua bi kịch cuộc chiến để sống mãi với tình cảm gia đình, cất cao bài hát tình cha con sâu nặng.
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Sống gắn bó với người lính trong chiến trường và trải qua những cuộc bão táp lịch sử, Nguyễn Quang Sáng được hun đúc bằng tấm chân tình mộc mạc của người dân Nam Bộ. Thế nên văn phong của ông cũng gần gũi, giản dị như một dòng sông chở nặng phù sa. Năm 1966, nhà văn từ miền Bắc về Nam, ghé ngang Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Trên cái nhà sàn cao tít, nghe cô giao liên có chiếc lược ngà trắng kể chuyện, Nguyễn Quang Sáng đã hồi hợp như nghe chuyện đời mình, “Chiếc lược ngà” ra đời nhanh chóng sau đó.
Câu chuyện lấy điểm nhìn từ nhân vật tôi, cũng là người bạn của anh Sáu, một nhân vật đồng hành cùng anh Sáu trong chuyến về lại nhà của một người cha biền biệt con bảy, tám năm trời. Điểm trần thuật này giúp nhà văn có cách nhìn khách quan về nhân vật và thông qua ông Ba, nhà văn truyền tải được thông điệp trong tác phẩm. Anh Sáu là một chiến sĩ tham gia kháng chiến. Anh xa nhà từ khi đứa con gái chưa tròn một tuổi. Ngày hoà bình lập lại, anh về quê nhà thăm con. Vì vết sẹo trên mặt mà con không nhận ra cha. Đến lúc anh lên đường thì thì con mới hiểu ra mọi chuyện. Thương con, ở chiến trường anh Sáu tỉ mỉ làm chiếc lược tặng con. Món quà chưa kịp trao tận tay con thì anh đã hi sinh.
Tình cha con của anh Sáu và bé Thu được khắc hoạ trong hai hoàn cảnh đó là trước khi Thu nhận cha và sau khi cuộc chia tay nước mắt diễn ra.
Bảy, tám năm trời xa cách con, anh Sáu cũng như bao chiến sĩ quên mình vì nghĩa lớn, đã âm thầm gom niềm thương, nỗi nhớ thành ý chí quyết tâm đánh đuổi quân thù, chờ ngày hoà bình để gặp lại người thân. Tấm lòng người cha chắc ngày đêm khắc khoải nỗi nhớ mong con. Hoà bình lập lại, anh Sáu được phép về thăm nhà, có lẽ con đường về nhà hôm ấy là con đường dài nhất trong đời người lính của anh. Bởi lẽ bao niềm phấn khởi, hồi hợp chi phối bước chân người lính. Thế nên vừa nhìn thấy “một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chơi dưới bóng cây xoài trước sân nhà” anh Sáu đã đón biết không ai khác ngoài con mình. Dù chẳng có nhiều dấu hiệu để nhận ra nhưng chỉ cần nhìn thấy dáng vóc ấy, đôi mắt ấy là người cha đã đủ linh cảm để biết chính xác giọt máu nóng của mình đang chảy trong cơ thể con bé. Được gặp con, lòng anh càng nôn nao “nhảy lên bờ khi xuồng chưa kịp cập bến”, “bước những bước dài” để nhanh đến bên con. Từng cử chỉ, hành động của anh, dù nhỏ thôi nhưng cũng đủ để bày tỏ được tâm trạng không thể chờ đợi thêm giây phút nào nữa. Ngần ấy thời gian mong mỏi, nay hình hài thân yêu ấy đã hiện hữu trước mắt anh, anh Sáu cất tiếng gọi con trong nỗi xúc động đã dâng lên đầu lưỡi “Thu! Con!” Đấy đâu chỉ là tiếng gọi mà còn là tiếng lòng, làm tình thương của người cha cất giữ bấy lâu, dồn nén tám năm trời chờ đến ngày được bật ra thành tiếng. Để rồi dòng thác lũ hi vọng bị chặn lại bởi thái độ hờ hững, xa lạ của con mình. Thu đã không ôm chầm lấy anh, không thút thít gọi ba. Những gì Thu làm khiến anh không dưới một lần thất vọng. Người lính kiên cường trên chiến trường đã vắng mặt, trước sân, đối diện với đứa con gái nhỏ, chỉ còn lại một người cha thua cuộc. Anh buông thõng cả hai tay, cảm giác hụt hẫng chiếm lấy anh. Có lẽ anh Sáu đã lặng người đi rất lâu, cái lặng người không thể tin rằng mọi chuyện lại xảy ra theo cách khiến anh đau lòng nhất.
Anh Sáu có buồn nhưng không trách con, con bé còn nhỏ đâu phải mọi chuyện đều thuận theo ý mình. Đặc biệt là khi anh không bên cạnh con bảy, tám năm, tình cảm chưa thể nối kết trong một sớm, một chiều. Vì thế mà anh Sáu dành cả ba ngày bên cạnh con, hi vọng thời gian đó có thể khiến con nhận ra mình cũng là cho anh cơ hội bù đắp sự quan tâm của một người cha mà Thu đã không nhận được. Mọi chuyện đâu đơn giản như anh nghĩ, nhất là khi Thu là đứa trẻ cá tính. Mong muốn được nghe một tiếng “ba” với anh sao khó quá. Nỗi chờ đợi suốt bảy, tám năm trời kéo dài đến tận hôm nay, khoảng thời gian ấy với ba ngày bên cạnh con đâu dễ gì so sánh được thời gian nào dài hơn.
Anh Sáu càng muốn tạo cơ hội để con gọi “ba” thì Thu lại tìm cách chối từ. Anh càng muốn sít lại gần con thì Thu càng rời xa anh. Mọi người trong gia đình cũng tạo ra những tình huống để bé Thu được gần bên cha. Bao nhiêu lần mọi người và chính anh Sáu đã tạo cơ hội để Thu gọi một tiếng “ba”. Vậy mà bấy nhiêu lần khiến anh thất vọng. Chị Sáu đã doạ đánh con với hi vọng ép con bé gọi anh là ba nhưng đòn roi vẫn không thể bắt buộc Thu. Lúc đó, chắc anh Sáu phải khổ sở biết chừng nào khi nhận được những tiếng gọi trống không lại còn xa lạ “người ta”. Không còn gì xót xa hơn đứa con gái của mình gọi mình bằng “người ta” nghe cứ như một người dưng không hơn không kém. Thế nên anh Sáu mới không thể khóc được mà “chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Cái lắc đầu bất lực, nụ cười héo hắt khi biết rằng trong mắt con, anh chưa phải một người cha. Nỗi khổ sở của anh cũng khó mà có thể cười hay khóc. Thu tiếp tục xát muối làm lòng anh Sáu khi con bé chẳng chịu nhận sự giúp đỡ từ anh. Thu tự chắt nước cơm, dù lo sợ mẹ quở trách, hốt hoảng với nồi cơm sôi sắp nhão và trước gợi ý của anh Ba, nhưng Thu nhất quyết không thốt một tiếng gọi “ba”. Không gọi đã đành, sự quan tâm của anh Sáu dành cho Thu cũng bị gạt đi. Cái trứng cá vàng ngon nhất dành phần con đã bị Thu hất ra ngoài. Thời gian không còn nhiều, anh không thể kìm được nỗi nóng lòng, tức giận nên chưa kịp nghĩ đã đánh con. Thu không khóc nhưng nước mắt đã ngập lòng anh. Anh Sáu day dứt suốt mãi sau này, cảm giác thất vọng não nề.
Trái ngược với sự mong đợi nơi ba, bé Thu tỏ ra mình là đứa trẻ ương bướng, cá tính. Không đáp lại lời của ba, Thu đã hốt hoảng vụt chạy và gọi mẹ. Thu cố chấp vì có sự hiểu lầm anh Sáu không phải ba mình. Trong lòng Thu chỉ duy nhất người cha trong tấm ảnh mà Thu được mẹ cho xem từ bé. Dù bị mẹ doạ đánh, bắt buộc Thu gọi ba, Thu vẫn kiên quyết chối từ. Tiếng gọi thiêng liêng đâu dễ dàng tốt ra từ miệng của cô bé có suy nghĩ riêng như Thu. Chính điều đó đã không ít lần khiến anh Sáu đau lòng. Danh xưng “người ta” mà Thu dành cho ba mình cứ như gọi một người dưng.
Thêm một tình huống khó khiến Thu phải lưỡng lự. Má bảo Thu cơm sôi thì gọi ba chắt nước giùm. Một đứa trẻ lên bảy đối diện với hoàn cảnh sắp sửa bị la rầy nếu như để nồi cơm nhão trong khi bản thân không thể tự làm thì chỉ cần gọi tiếng ba là có thể giải quyết vấn đề. Vậy mà Thu cố chấp đến cùng. Thu lờ đi gợi ý của ông Ba, chẳng cần bận tâm đến nỗi mong chờ nằm dài trên khuôn mặt người cha, Thu vẫn giữ thái độ ban đầu, con bé gọi trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”.
Đâu chỉ có bao nhiêu, Thu tiếp tục thêm chút đắng cay vào trong lòng ba mình bằng việc chối từ một cách thẳng thừng cái trứng cá mà ba đã gắp cho trong bữa cơm. Một đứa trẻ thông thường sẽ vô tư đón nhận sự quan tâm của người lớn, sẽ thích thú khi được cho trứng cá vì đó là phần ngon của cá. Tuy nhiên một đứa trẻ bướng bỉnh như Thu sẽ không thể cứ mặc nhiên mà đón nhận tình cảm của bất cứ người đàn ông nào khác ngoài người mà Thu nghĩ là ba. Trong suy nghĩ của Thu, nếu như vô tư ăn trứng cá kia, mặc nhiên mà đón nhận đồng nghĩa với việc chấp thuận ông ấy là ba mình. Cuộc chiến giữ vững suy nghĩ của Thu vẫn kiên quyết đến cùng. Bức thành trì mà một đứa con gái cá tính tạo nên đâu dễ vì cái trứng cá mà sụp đổ. Khi bị ba đánh, Thu đau nhưng không khóc lóc. Con bé lặng lẽ bỏ lại trứng cá vào chén cơm rồi sang bên nhà ngoại. Chi tiết Thu cố tình khua dây xuồng thật kêu để báo cho mọi người biết mình đi lại đúng thật là tâm lý của một đứa trẻ. Dù không khóc đó nhưng Thu vẫn báo rằng mình đi vì mình giận. Thu vẫn mong muốn được chú ý, được sự quan tâm của người lớn như bất cứ đứa trẻ nào. Đọc đến đây, tuy có chút đồng cảm với anh Sáu và thương cho một người cha chưa tròn ước nguyện nhưng cũng không vì thế mà nỡ ghét bỏ Thu. Suy cho cùng mọi sự cố chấp của Thu cũng xuất phát từ tình yêu thương, kính trọng đối với một người cha mà em tôn thờ. Sự kiên quyết không cần suy xét lý do của một đứa trẻ không cho phép Thu gọi ai là “ba”. Người đàn ông có vết sẹo dài trên mặt và người cha trong trí tưởng tượng của Thu hoàn toàn khác nhau.
Ấy vậy mà trong giây phút sau cùng trước khi anh Sáu lên đường, Thu đã kịp bộc lộ hết tình cảm của một đứa con xa cha, cần hơi ấm vòng tay người cha và khao khát được gọi “ba”. Thu đâu phải đứa trẻ vô tâm, cũng không phải ngang bướng hay cứng đầu. Mọi hành động em làm điều có lý do. Tất cả cũng vì vết sẹo lớn trên gương mặt ba. Thu cũng thấy ân hận vì lỡ làm ba mình buồn lòng. Cô bé đâu chỉ là trẻ con, khi đã nghe và hiểu, Thu đâu khác gì một người lớn hiểu chuyện. Thu nhận ra mình đã sai và lần đưa tiễn này đây chính là cơ hội cuối cùng. Thu là một đứa trẻ, mà trẻ con thì luôn muốn được thương yêu và thể hiện sự yêu thương của bản thân dành cho người khác bằng hành động mãnh liệt nhất. Lời chào tạm biệt của người cha như giọt nước nhỏ vào ly đã đong đầy. Thu thốt lên tiếng kêu xé lòng, tiếng gọi là Thu đã ấp ủ từ tấm bé nay được thỏa nỗi mong chờ. “Ba ….a..a..ba!”Gọi vẫn còn chưa đủ, Thu chạy tới trong cử chỉ cuống quýt, vồ vập. Thu dùng cả cơ thể mình để đón lấy tình phụ tử thiêng liêng. Hàng loạt những động từ thể hiện hành động của Thu như chạy xô tới, hót lên, giang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ… Cả vết sẹo mà trước đó không lâu Thu còn e sợ thì giờ đây Thu không hề né tránh thậm chị còn hôn lên nó. Với Thu, vết sẹo kia mới thật sự oai phong làm sao, nó là chiến tích của một người người hùng. Trong lòng Thu giờ đây ắt hẳn cảm thấy có lỗi với cả vết sẹo này vì Thu đã từng xem nó là bằng chứng để Thu xa lánh ba mình. Cô bé cố thâu tất cả những tình thương vào trong nụ hôn và vòng tay siết chặt ba mình cho thỏa những tháng ngày mong mỏi. Thu đã trở về là một đứa con nít, không gai góc xù xì, không ương bướng khó bảo, Thu trở về là Thu nguyên vẹn trong hình hài một đứa con khao khát tình cha, một đứa trẻ nhõng nhẽo không muốn ba mình phải rời đi. Sự nhõng nhẽo ấy mới đúng tâm lý của cô con gái. Giây phút tiếng “ba” bật lên từ đôi môi bé xíu của Thu, cũng là giây phút cảm động nhất của câu chuyện.
Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu đã khiến anh Sáu hạnh phúc nhất.“một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt ” Nếu biết đó là giọt nước mắt đầu tiên cũng là cuối cùng khi nghe đứa con gái nhỏ gọi ba chắc có lẽ anh Sáu đau lòng biết mấy. Tiếng gọi “ba” xoắn chặt lấy tâm can anh Sáu, trong buổi chia ly, ai ngỡ đó là giây phút cuối cùng. Anh Sáu đã ân hận khi trót đánh con và cũng luyến tiếc khi chẳng thể ở gần con thêm nữa. Tấm lòng người cha gửi hết vào món quà mà anh tự tay làm cho con. Mong ước đơn giản của đứa co gái bé bỏng cũng là niềm vui lớn lao khiến người cha không tiếc công sức mài dũa từng răng lược. Nhìn vẻ mặt hớn hở của anh khi nhặt được khúc ngà trong rừng cũng đủ để thấy được món quà là tất cả tình thương, là hiện thân cho ước mơ ngày gặp lại. Thời gian rảnh ở chiến khu, anh “cưa từng răng lược”, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”…Những lúc nhớ con ông lại mang cây lược ra mái lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt. Anh nâng niu chiếc lược như đôi bàn tay cha nâng niu đứa con bé nhỏ. Anh chải lên tóc mình để cảm nhận được hơi ấm của những ngón tay con vuốt lên tóc anh ngày nào.
Chiếc lược ấy đã gỡ rối được lòng anh, đã xoa dịu được trái tim với quá nhiều nỗi đau của người cha bất hạnh. Người lính đâu chỉ can trường mà còn đem tình thương của mình thành nghệ thuật. Chiếc lược có lẽ là tác phẩm cuối cùng cũng là duy nhất được tạc nên bằng tình thương vô bờ của người cha. Người chiến sĩ dũng cảm đã mãi mãi ở lại chiến trường. Sự hi sinh của anh không thể giết chết tình phụ tử “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”. Giờ phút cuối cùng, điều người cha đau đáu nhất vẫn là chưa tận tay trao cho con chiếc lược. Anh Sáu đã nghĩ gì trong lúc nhờ người bạn của mình gửi lại cho Thu? Phải chăng trong đáy mắt là hình ảnh cô bé mặc áo bà ba đỏ đang chơi nhà chòi, ngước đôi mắt thơ ngây nhìn anh hay là cô bé nấc lên nghẹn ngào gọi tiếng ba. Câu chuyện khép lại với nỗi buồn vô hạn cũng chan chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vượt qua nỗi đau mất mát người thân, Thu tìm thấy được sức mạnh tình thương của người cha để biến đau thương thành động lực. Trong giây phút cầm trên tay chiếc lược được trao lại từ tay ông Ba, cô giao liên Thu đã nhận được một món quà còn vĩ đại hơn thế nữa, đó là tình cha con sâu nặng, là động lực giúp Thu vững bước hơn trên con đường mình đã chọn.
Anh Sáu, anh ba, bé Thu đều là những con người đã hi sinh tuổi đời cho cách mạng. Riêng nhân vật anh Sáu, anh xứng đáng là người hùng thầm lặng khi ngã xuống trên hành trình cả nước tiến đến ngày thống nhất. Tuy vậy, Nguyễn Quang Sáng không chủ ý hướng ngòi bút của mình để xây dựng bản anh hùng ca, nhà văn chọn những chi tiết rất đỗi bình thường nhưng lại đắt giá vì có sức ám ảnh sâu sắc. Chiếc lược ngà chính là chi tiết nhỏ nhưng làm nên ý nghĩa lớn. Chiếc lược ngà xuất hiện ở gần cuối đoạn trích, trong lúc mọi người tiễn anh Sáu lên đường cũng là khi bé Thu nhận ba mình. Chiếc lược là mong muốn của bé Thu, là ao ước giản dị của một cô con gái muốn được cha mình thể hiện tình yêu thương.
Chiếc lược là kỷ vật, là món quà cuối cùng của một người cha. Quá trình làm nên chiếc lược ngà đã gửi gắm bao nhiêu tình thương, niềm hi vọng, đợi chờ ngày trở lại quê nhà để giữ tròn lời hứa cũng là để tận tay trao chiếc lược cho con. Thế nên hình tượng chiếc lược còn là nỗi day dứt, nuối tiếc của một lời hứa chưa trọn vẹn. Dẫu người cha không thể nhìn mặt con lần cuối nhưng đã có chiếc lược chải vào mái tóc dài đen mượt của con. Dòng chữ khắc trên ấy là tất cả tâm sự của anh Sáu muốn nói cùng con. Đâu chỉ là tình cha, chiếc lược còn là lời nhắn nhủ Thu tiếp bước thế hệ đã ngã xuống, giữ gìn từng tấc đất, từng cánh đồng cho con cháu mai sau. Lời động viên, nhắc nhở ấy được Thu đón nhận bằng cả tấm lòng và sự biết ơn sâu sắc. Chiến tranh có thể cướp mất đi sinh mạng, đẩy con người vào cảnh ngộ éo le, nhưng không thể cắt đứt chùm rễ của niềm tin, hi vọng sống, càng không thể chia cắt được tình cảm thiêng liêng.
Đọc văn Nguyễn Quang Sáng nói chung và Chiếc lược ngà nói riêng ta thấy được cuộc sống gần gũi, giản dị của người dân Nam Bộ như hiện ra trước mắt. Với lối viết đơn giản như kể, sử dụng nhiều hình tượng nghệ thuật mang chiều sâu ý nghĩa, Chiếc lược ngà đâu chỉ là bản hùng ca về một thời oanh liệt mà còn là khúc đau thương nhưng cảm động về tình cha con bất diệt. Cái tài tình của nhà văn còn nằm ở cách lựa chọn ngôi kể, tạo tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tự nhiên. Vì thế mà “Chiếc lược ngà” đã gây một nỗi ưu hoài không bao giờ dứt đối với độc giả.
Vết sẹo trên gương mặt anh Sáu đã gây ra những hiểu lầm để hai cha con dù gần nhau mà con chẳng nhận ra cha, cha không được ôm con vào lòng cho thuở nhớ mong. Vết sẹo vô hình của chiến tranh lại càng tàn khốc, nó lấy đi cơ hội ngày về của một người cha. Câu chuyện khép lại, người đọc vẫn còn tiếc thương cho tình phụ tử chưa trọn vẹn và cảm phục trước tấm lòng của những bậc làm cha dành cho con cái. Bản tình ca về tình phụ tử sẽ mãi sống cùng năm tháng, nhắc nhở thế hệ chúng ta biết quý trọng tình cảm gia đình, quý trọng sự hi sinh của mẹ cha và những người đi trước.
Cảm nhận tình cảm cao đẹp của cha con ông Sáu
Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam. “Chiếc lược ngà” là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Truyện viết về tình cảm gia đình, tình cảm cha con trong chiến tranh thật cảm động mà sâu sắc. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Truyện xoay quanh hai nhân vật: ông Sáu và bé Thu. Tham gia kháng chiến, ông Sáu bị thương, vết thương để lại trên khuôn mặt ông một vết thẹo lớn. Vì vết thẹo ấy, trong lần về thăm nhà ông Sáu đã phải chịu nỗi đau tinh thần: đứa con gái ông hằng thương nhớ, khát khao gặp mặt suốt bảy năm đằng đẵng lại vì vết thẹo mà không chịu nhận cha mặc dù lần gặp con này là cơ hội gần gũi, yêu thương duy nhất của ông vì ông chuẩn bị tập kết ra Bắc, không biết khi nào quay lại.
Đó là một tình huống bất ngờ, éo le mà tự nhiên, hợp lí. Bé Thu đã lâu ngày không gặp cha. Hình ảnh của người cha trong tâm trí nó chỉ được khắc ghi qua tấm ảnh đã cũ rồi. Người cha trong nó hiền lành lắm! Còn ông Sáu, với vết thẹo dữ dằn kia, khác người đàn ông trong ảnh quá! Điều này gây bất ngờ với bé Thu vì gương mặt ông Sáu giờ đã quá xa lạ. Và phản ứng không nhận cha của Thu cũng gây bất ngờ cho ông Sáu bới nó hoàn toàn trái ngược với những mong muốn và tưởng tượng của ông Sáu về cuộc đoàn tụ gia đình sau nhiều năm xa cách. Nhưng nó cũng rất tự nhiên, hợp với tâm lí, tình cảm của một đứa trẻ thơ.
Tình huống càng trở nên éo le, khiến người đọc phải hồi hộp theo dõi từng trang truyện vì thời gian ông Sáu ở nhà không nhiều và dù chỉ còn một ngày nữa, đứa bé vẫn quyết không nhận cha. Có thể coi đó là tình huống thử thách, thử thách để con nhận cha, cha chứng minh với con. Qua tình huống này, tình cha con sâu nặng và cao đẹp càng được thể hiện rõ nét hơn.
Tình cha con sâu nặng và cao đẹp được khẳng định trong cảnh ngộ chiến tranh. Tình cảm cha con được thể hiện qua cả hai nhân vật, đặc biệt là nhân vật ông Sáu. Tác giả không chú ý đến khắc họa phần anh hùng trong cuộc đời ông Sáu mà chỉ chú trọng khắc họa chân dung người cha với những tình cảm sâu sắc, cao đẹp và những nỗi đau, bất hạnh trong cuộc đời ông. Hơn 7 năm trời hai cha con bé Thu không được gặp nhau. Cha con chỉ nhận ra nhau qua tấm hình. Lúc còn ở rừng, ông Sáu nhớ thương con vô cùng. Lúc nào ông cũng khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của con.
Ba ngày nghỉ phép ở nhà, ông khao khát tình cảm của con bao nhiêu thì thực tế lại phũ phàng bấy nhiêu. Con bé hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha. Ông càng xích lại gần, nó càng lùi xa. Ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông càng mong được nghe tiếng ba, nó càng cố tình lẩn tránh.
Ngọn lửa nồng nàn của lòng cha cứ bị những đối xử xa lánh, ương ngạnh, của nó chối từ kể cả khi nó bị lâm vào thế bí “nồi cơm sôi sùng sục”, kể cả những lời giảng giải của mẹ, nó cũng kiên quyết không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong đợi. Điều đó làm ông Sáu thực sự đau lòng, ông chỉ biết lắc đầu cam chịu bởi tình cảm không dễ gì gượng ép. Ông cố gắng tìm mọi cách để chuyện trò, vỗ về con, gắp trứng cá cho con nhưng không thành. Cơn giận và việc đánh con cũng xuất phát từ nỗi đau khổ của một người cha bị con cự tuyệt. Phút chia tay con tren bến sông, niềm hạnh phúc khi được bé Thu gọi “ba” khiến anh bật khóc.
Khi ở chiến khu, ông thương nhớ con, ân hận vì mình đã đánh con. Bao nhiêu tình cảm yêu thương, nhớ nhung ông dồn vào việc làm chiếc lược ngà, món quà kỉ niệm ông đã hứa tặng con gái ngày ra đi: “Lúc rảnh rỗi anh ngồi cưa từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành, những đêm nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một sản phẩm duy nhất trong đời. Cho nên cây lược ngà kết tinh trong nó tình phụ tử: mộc mạc mà đằm thắm, sâu sa, đơn sơ mà kỳ diệu.
Chiếc lược ngà đối với ông là vật kỉ niệm, vật mang tâm hồn, chứa đựng biết bao tình thương, nỗi nhớ của ông đối với con gái yêu. Chiếc lược là niềm an ủi, động viên ông trong những ngày tháng gian khổ. Có thể nói, chiếc lược ngà là biểu tượng tình cảm cha con – một tình cảm thiêng liêng, sâu nặng và bất diệt. Khi bị thương nặng, biết không thể sống được, ông đã dồn tất cả tàn lực của mình làm một việc: “đưa tay vào túi móc cây lược đưa lại cho ông Ba” như trao lại lời di chúc. Đó là uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng đối với người bạn thân. Chỉ đến khi gửi lại chiếc lược ngà lại cho bạn với lời nhắn nhủ sẽ trao tận tay bé Thu, ông mới yên lòng nhắm mắt.
Ở nhân vật bé Thu, ban đầu, khi ông Sáu mới về, bé Thu không chịu thừa nhận cha: không chịu vâng lời ông Sáu nói, không gọi “ba”, nói trống không, hất miếng trứng cá mà ông Sáu gắp cho nó ra khỏi bát, bỏ sang nhà ngoại khi giận ông Sáu. Nhưng khi hiểu ra thì lại thấy rằng: chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm phụ tử. Đơn giản vì vết thẹo dài trên má người đang xưng là ba đây lại không giống với ảnh ba mình, thắc mắc thầm kín trong lòng nó.
Sau khi được bà ngoại giải thích cặn kẽ, bé Thu mới hiểu ra đó là ba mình. Tiếng thét của bé Thu “Ba…a…a…ba!” chứa đựng tất cả tình yêu thương, nỗi nhớ và sự ân hận. Cô bé nhất định “không cho ba đi nữa”,“hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”… Lớn lên, Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, cùng tham gia kháng chiến, tiếp bước con đường của cha cô, để lí tưởng của cha còn sáng mãi. Hai cha con quả “đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
Chiếc lược ngà chính là biểu tượng cao quý của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Tác phẩm là một bài ca cảm động về tình phụ tử thiêng liêng. Tình phụ tử được biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau. Dù ở hoàn cảnh nào, gặp khó khăn nào tình phụ tử cũng không thể bị chia cắt. Tình phụ tử là nguồn động lực to lớn để con người vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống. Đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý, đáng trân trọng.
Tác phẩm có cốt truyện chặt chẽ, cách lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý. Nhà văn đã có cách lựa chọn ngôi kể, cảnh kể và ngôn ngữ lời thoại phù hợp với nhân vật. Nghệ thuật viết truyện già dặn của Nguyễn Quang Sáng góp phần không chỉ làm cho câu chuyện đảm bảo tính khách quan, chân thực, tin cậy mà còn hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể và dẫn dắt nội dung câu chuyện theo dòng cảm xúc của mình.
Tình cảm cao đẹp của cha con ông Sáu đã được thể hiện cảm động và sâu sắc trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ở nhiều cung bậc khác nhau. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng vừa tinh tế vừa giản dị, thể hiện sự quan sát tỉ mỉ và sự am hiểu tâm lí con người. Đặc biệt, nhà văn đã xây dựng một tình huống truyện rất éo le, cảm động; qua đó, phần nào nói lên sự ác nghiệt của chiến tranh. Qua tác phẩm, nhà văn muốn khẳng định tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để mỗi con người vượt lên những khó khăn, trở ngại của cuộc sống.
Cảm nhận tình cảm cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh
Thành công nhất của Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn Chiếc lược ngà là đã thể hiện thật cảm động vẻ đẹp tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh. Viết về chủ đề hạnh phúc gia đình bị chia cắt bởi chiến tranh và cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân và dân miền Nam có rất nhiều tác phẩm nổi bật trong thời kì này. Có thể kể đến Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Hòn đất của Ninh Đức,… Thế nhưng, Nguyễn Quang Sáng đã có một lựa chọn thể hiện khá độc đáo. Ông xây dựng một tình huống hiểu nhầm thú vị dựa trên tính cách ngây thơ của trẻ thơ để làm lộ rõ những phẩm chất cao quý của nhân vật. Trong đó, tình cảm cha con thắm thiết được khắc họa chân thành và cảm động.
Trong cảnh ngộ chiến tranh tình cha con bị chia cắt bởi bao nỗi nhớ thương khi xa cách, bởi sự hiểu lầm đau khổ khi gặp gỡ. Các tình huống truyện dù đã được nhà văn tháo gỡ nhưng mỗi khi đọc lại ta không khỏi hồi hộp và nghẹn ngào.
Anh Sáu sau bao năm xa cách đã rất xúc động khi gặp lại con. Thế nên, “khi xuồng chưa kịp cập bến anh đã nhanh chân nhảy thót lên” . Và rất nhanh khi ” thấy đứa trẻ trạc chừng 7, 8 tuổi, tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đang ngồi chơi nhà chòi dưới gốc cây xoài trước hiên nhà” bằng linh tính máu mủ ruột rà anh nhận ra ngay là Thu. “Xúc động, anh dang hai tay ra phía trước , cất tiếng gọi giọng lập bập run run ” Thu, con”. Thu bỏ chạy, kêu thét lên. Anh đứng sững đó, “hai cánh tay buông thõng như đôi cánh bị gãy”. Niềm mong đợi của anh đã không như anh mong đợi. Lần thứ nhất, anh thấy thực sự đau khổ khi đứa con duy nhất không vồ vập lấy cha nó khi anh trở về.
Anh đã đau khổ nhưng cố gắng dằn nỗi tức giận khi con hắt hủi, vô lễ và cương quyết tỏ thái độ không nhận anh là cha. Vì nó là con anh, chắc chắn rồi. Nhưng anh lại không hề nghĩ đến cái nguyên nhân khiến con không nhận anh. Quá vui mừng khiến anh đã quên mất việc làm đó. Anh đắm chìm trong nỗi đau thương mỗi khi con gái có hành động cự tuyệt anh.
Thu nói rằng “Vô ăn cơm” một cách trống rỗng ,vô tâm. Anh ngồi im. Thu ương bướng tự chắt nước nồi cơm sôi, “anh khe khẽ lắc đầu rồi cười. Có lẽ vì khổ tâm nhưng không khóc được nên anh phải ngồi cười mà thôi”. Anh bất lực và không có cách nào có thể khiến con bé thay đổi.
Và khi lỡ tay đánh con, anh đã hối hận, đau khổ. Anh đánh con là bởi anh quá giận. Đó là một hành động bộc phát, đường đột và không nên xảy ra. Sau con giận, anh mới nhận ra điều đó. Bé Thu sang nhà ngoại tạo một khoảng trống mênh mông trong lòng anh. Anh hiểu, tất cả là do chiến tranh. Chiến tranh đã tạo nên cuộc chia cách bảy năm trời. bảy năm không có cha ở bên khiến bé Thu không thể dễ dàng chấp nhận lại anh chăng? Nếu điều đó là sự thật có lẽ cũng không làm anh đau lòng đến thế.
Tình cảm cha con thắm thiết còn thể hiện sâu sắc ở nhân vật bé Thu. Vì yêu cha, Thu đã bướng bỉnh, cương quyết không nhận anh Sáu là cha trong ba ngày gặp gỡ. Bởi vì trong em luôn có một hình ảnh người cha đẹp như trong hình mà mẹ thường đưa cho nó xem. Cha em thật trẻ trung qua tấm hình chụp chung với mẹ. Cha em thật đẹp trong lời kể của mọi người về một người chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ quê hương. Trong thương nhớ của hai mẹ con suốt bảy năm trời. Hình ảnh người cha đó vừa thiêng liêng vừa cao đẹp. Không có gì có thể thay thế được hình ảnh người cha ấy trong lòng nó.
Khi anh Sáu trở về, gian khổ làm anh già đi. Lại thêm cái vết sẹo khủng khiếp làm mặt anh biến dạng. Điều này thật khác so với sự tưởng tượng của Thu. Bởi vậy, nó hoài nghi và căm ghét kẻ đã xâm phạm đến hình ảnh người cha thiêng liêng trong lòng nó. Nó bướng bỉnh, ương ngạnh bao nhiêu chỉ để bảo vệ tiếng gọi ba thiêng liêng, bảo vệ hình ảnh người cha trong tâm hồn non nớt ngây thơ của nó mà thôi.
Còn anh Sáu, anh không hề hiểu điều đó. Trái tim anh vẫn nguyên vẹn nhưng vẻ ngoài của anh đã thay đổi khá nhiều. Tất cả mọi người cũng không ai nhận ra. Chỉ có bé Thu, với tâm hồn nhạy cảm của trẻ thơ mới tinh tế đến thế. Thế nhưng, bé Thu sau khi đã hiểu ra nguyên nhân của sự thay đổi khiến cho nó không nhận ra cha. Đêm ấy, nó ân hận, dày vò: “Nó nằm lăn lộn, rồi thở dài như người lớn”. Vết sẹo xấu xí trên gương mặt cha chỉ làm cho Thu thương cha nó thêm mà thôi.
Trong giờ phút chia tay, bao nhiêu yêu thương được tác giả đặc tả vào trong đôi mắt. “Cái nhìn của nó không ngơ ngác lạ lùng mà như nghĩ ngợi sâu sa” bao nhiêu diễn biến nội tâm xáo trộn bời bời. Có nên chạy ra với cha không? Nếu không nhận cha hôm nay thì cha lại đi biền biệt biết bao giờ gặp lại? Khi anh Sáu đưa mắt nhìn con thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.
Thật bất ngờ niềm ân hận hối tiếc kìm nén bấy lâu chợt bùng ra trong tiếng gọi “ba” kéo dài thật tha thiết. “Tiếng kêu như xé. Xé không gian im lặng. Xé ruột gan mọi người nghe thật xót xa” . Nó nhảy thót lên, dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Hôn cả lên vết sẹo rồi nghẹn ngào: “không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con” . Ôi, cái hôn đẫm nước mắt trẻ thơ chứa đựng bao nhiêu yêu thương và xót xa ân hận. Cô bé cứng cỏi, ương ngạnh là thế nhưng cách biểu lộ tình cảm hồn nhiên ngây thơ và chân thành biết bao.
Anh Sáu đã không thể giấu được nỗi xúc động nghẹn ngào khi con gái ôm chặt lấy ông nghẹn ngào. Anh đã khóc khi được con gọi mình là “ba” và hôn cha cùng khắp. Hôn cả lên vết sẹo. Anh sung sướng không sao kể xiết. Tất cả mọi đau khổ, hờn giận, thất vọng bấy lâu chợt tan biến. Trong anh, một cảm giác êm dịu cứ mơn man khắp cơ thể. Trái tim người cha rung động mãnh liệt ngay giây phút thiêng liêng ấy.
Anh Sáu mang tình thương nhớ con lên đường. Ở chiến khu, anh dồn bao nhiêu yêu thương, nhớ nhung vào việc cưa từng chiếc răng lược. Anh bày tỏ tình yêu nhớ con trong lời đề tặng: “Yêu nhớ tặng con Thu của ba” Trước khi chết, tình cha con khiến anh không nhắm mắt được và chỉ yên lòng khi ông Ba, đồng đội thân thiết hứa: “Anh yên tâm, tôi sẽ mang cây lược này về trao tận tay cho cháu” anh mới nhắm mắt đi xuôi.
Cảm nhận vẻ đẹp tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà và Lão Hạc
Trong văn học Việt Nam và thế giới, các nhà văn, nhà thơ đã dành không ít bút lực để ca ngợi người mẹ – tình mẹ. Song trong thực tế, nếu “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình” thì “Tình cha ấm áp như vầng thái dương”. Tình yêu thương của cha đối với con cũng không kém phần người mẹ. Hình tượng lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao và hình tượng ông Sáu, người cha, người chiến sĩ cách mạng trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đẹp về tình cha.
Lão Hạc là người nông dân nghèo, tình cảnh của lão Hạc thật bi thương. Vợ lão chết sớm, vì quá nghèo lão không có tiền cưới vợ cho con. Con lão phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, bỏ lại lão bơ vơ cùng con chó vàng ở nhà. Lão bị ốm nặng, làng mất vé sợi, cơn bão đi qua phá hoại hết hoa màu, tuổi già sức yếu chẳng ai muốn thuê lão làm việc nữa. Lão đành bán con chó yêu quý của lão rồi ăn củ khoai, củ ráy, rau má, bữa trai bữa ốc cho qua ngày, tới khi không còn cái gì ăn nữa thì lão ăn bả chó tự tử. Cái chết của lão thật đau đớn thê thảm.
Tình cảnh bi thương nhưng phẩm chất của lão thật cao quý. Lão luôn day dứt vì không có tiền cưới vợ cho con. Bao tình thương yêu, lão gửi gắm qua con chó Vàng- kỉ vật duy nhất còn lại của đứa con. Cách lão gọi “cậu Vàng”, cách lão chăm sóc, trò chuyện, cưng nựng…con chó Vàng. Lão ở nhà sức tàn lực kiệt nhưng vẫn bòn vườn, ki cóp dành tiền cho con để nó về cưới vợ và có chút vốn làm ăn. Lão chịu đói khổ chứ không tiêu vào số tiền dành dụm, quyết chết để lại mảnh vườn cho con chứ không chịu bán. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo 30 đồng bạc để lo ma chay cho mình, gửi lại mảnh vườn nhờ ông giáo trông nom cho con khi nó trở về.
Lão Hạc là một người cha tốt, người cha rất mực thương con, hi sinh hết lòng vì con. Dù lâm vào cảnh cùng quẫn nhưng lão vẫn giữ mình trong sạch “đói cho sạch, rách cho thơm”, không làm việc xấu xa như Binh Tư đã nghĩ. Phẩm chất của lão thật cao quý, đáng trọng.
Đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, ông Sáu cũng như bao người chiến sĩ cách mạng khác phải lìa xa vợ con, gia đình, quê hương đi chiến đấu, bảo vệ nền hòa bình cho đất nước. Chín năm kháng chiến trường kì và đằng đẵng xa con, ông khổ sở, mong mỏi đến nôn nao cái phút giây được gặp lại con, được ôm con vào lòng cho thỏa niềm thương nhớ. Song thật trớ trêu! Cái giờ khắc nhìn thấy con, ông càng vồ vập, cuống quýt bao nhiêu thì đứa con lại lảng tránh, chối bỏ ông bấy nhiêu. Nguyễn nhân là do chiến tranh đã để lại di chứng vết thẹo trên gương mặt ông, đã làm cho con ông không nhận ra cha.
Xót xa khi con nhận ra cha, cất tiếng gọi ba thì cũng là lúc cha con vĩnh viễn xa nhau. Người cha thân yêu ấy đã mang theo vào chiến trường một mong ước của con: “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Ở nơi rừng rú chiến khu này tìm mua đâu cho được cây lược? Ý nghĩa nhất chính là tự tay cha làm cho con một chiếc lược mới có thể phần nào bù đắp được tình cha những lúc vắng xa.
Ông Sáu là người cha thầm lặng, đau khổ rất mực thương con. Ở chiến trường, ông quyết dồn tâm huyết để làm cho con một cây lược. Khi kiếm được khúc ngà, mặt ông “hớn hở như đứa trẻ được quà”, những lúc rỗi, ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Khi chiếc lược đã hoàn thành, ông tỉ mẩn gò công khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Nâng niu, trân trọng như một vật báu, ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng mượt”.
Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân sáng tạo. Sáng tạo một tác phẩm thiêng liêng, cao quý duy nhất về tình cha con. Vì thế, cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà thật kì diệu.
Đáng tiếc, kỉ vật thiêng liêng ấy chưa kịp trao cho con thì ông Sáu đã hi sinh. Tàn lực cuối cùng ông dồn lên đôi mắt và đưa tay vào túi, móc cây lược ra đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết nhất, như muốn nói, như muốn chuyển giao sự sống, chuyển giao ước nguyện cuối cùng của người cha cho người đồng chí: hãy tiếp tục làm tròn bổn phận của một người cha, hãy gìn giữ mãi tình cha con ruột thịt. Ông Sáu hi sinh, nhưng tình cha con thì không bao giờ chết được. Chiến tranh, sự khốc liệt có thể cướp đi tính mạng, thể xác, không thể cướp đi tình cha con cao quý, sâu nặng. Nó sẽ sống mãi trong chiếc lược ngà mà ông đã dành cho con.
Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con. Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Cả hai nhân vật đều là biểu tượng sáng ngời cho tình phụ tử sâu nặng: dành cho con tất cả, thậm chí sẵn sàng hi sinh tất thảy vì con.
Để khắc họa tình cha con, cả hai tác phẩm đều xây dựng được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lại có những khám phá sáng tạo riêng, độc đáo. Ở “Lão Hạc”, Nam Cao khám phá tình cha con của người nông dân Bắc Bộ trước Cách mạng tháng 8 trước thử thách khốc liệt của cái đói và miếng ăn, của cảnh ngộ khốn cùng, qua đó, tác giả thể hiện niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp, bản chất lương thiện của họ. Ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng khắc sâu chủ đề về tình cha con của người chiến sĩ cách mạng miền Nam trong thử thách khốc liệt của chiến tranh trên cả hai phương diện: tình cha với con và ngược lại, từ đó cho người đọc thấy những nỗi đau tột cùng mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người.
Cùng viết về tình cha con nhưng cách chọn ngôi kể ở mỗi tác phẩm là khác nhau. Ở “Lão Hạc”, Nam Cao chọn nhân vật tôi – ông giáo là người trần thuật lại câu chuyện. Nhân vật tôi mang hình bóng cái tôi của tác giả đã đi từ dửng dưng, nghi ngờ đến ngạc nhiên, thấu hiểu. Có lúc, tác giả còn xen vào những lời bình luận trữ tình ngoại đề. Giọng điệu trần thuật của tác phẩm , do đó, cũng mang tính chất đa thanh: vừa dửng dưng lạnh lùng, vừa đằm thắm yêu thương, vừa xót xa bi phẫn… Hành trình nhận thức của nhân vật tôi cũng chính là hành trình mà người đọc khám phá những vẻ đẹp nhân cách cao cả của lão Hạc.
Trong khi đó, ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng để nhân vật tôi là người bạn chiến đấu lâu năm với ông Sáu kể lại câu chuyện cảm động về tình cha con. Do đó, câu chuyện được kể lại bằng giọng điệu thân mật, dân dã, thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu của tình bạn, tình đồng chí, giàu tính nhân văn. – Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng thấm đẫm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, đặc biệt là tâm lí của trẻ thơ. Truyện của Nam Cao giàu chất trữ tình và triết lí.
Lão Hạc thuộc tầng lớp nông dân cố cùng sống trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Lão tiêu biểu cho số phận người nông dân khốn cùng trước Cách mạng tháng Tám. Cha con phải xa lìa nhau là do đói nghèo, do xã hội thực dân nửa phong kiến dã man tàn bạo, áp bức, bóc lột khiến cho đời sống của họ lâm vào bước đường cùng.
Còn ông Sáu, cha con phải xa lìa nhau, không nhận ra nhau là do chiến tranh. Tội ác của chiến tranh đã gây bao đau thương tang tóc cho mỗi gia đình Việt Nam. Ông Sáu là người chiến sĩ trung thành với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội. Thương yêu con nhưng vì nghĩa lớn phải ra đi và bị hi sinh.
Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm có những sáng tạo độc đáo trên là do: bản chất của văn học (phải không ngừng sáng tạo), do sự khác biệt của thời đại, mục đích sáng tác, đặc điểm sáng tác của hai tác giả. – Ý nghĩa của sự tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện tình cha con ở hai tác phẩm: Sự tương đồng góp phần làm nên chất nhân bản, nhân văn của văn học. Sự khác biệt làm nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng của văn học.
Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu mực. Trong tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, thiêng liêng. Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con. Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Ở trong cảnh ngộ càng khó khăn thì tình cha con càng được tỏa sáng, thiêng liêng và cao quý.
Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu mực. Trong mỗi tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, cao cả, thiêng liêng biết mấy.
Cảm nhận tình cha con qua truyện ngắn Chiếc lược ngà
Trong mỗi chúng ta, ai mà chẳng được sống trong những giây phút xúc động của tình cảm gia đình. Đến với văn học ta càng cảm nhận rõ nét hơn sự rung cảm đến tột cùng đó. Nếu đến với "Bếp lửa" của Bằng Việt ta được sống lại cuộc sống êm đềm bên người bà... Đến với "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố ta được chìm ngập trong tình mẹ con sâu nặng...Thì đến với tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu.
Dưới cây bút tài ba của nhà văn ta được đến với những tình huống vô cùng độc đáo và bất ngờ, qua đó càng nhấn mạnh tình cảm cha con sâu sắc cao đẹp trong cảnh ngộ éo le. Cái cảnh ngộ đã làm bé Thu và ông Sáu trở nên xa cách và lạnh lùng.
Sau tám năm xa cách gia đình, vợ con để đi chiến đấu lúc nào ông Sáu cũng nuôi trong mình hy vọng là được về thăm nhà. Thế rồi cái ước mơ đó đã trở thành hiện thực, ông được về thăm nhà, thăm vợ con. Lúc về đến nhà ông vô cùng hồi hộp được nhìn thấy đứa con sau bao năm xa cách, nhưng ông càng hy vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu. Bé Thu - con gái ông đã không nhận ra cha bởi vì cái vết thẹo dài trên má. Đã làm cho ông Sáu đau lòng nhưng ông vẫn yêu thương con bằng tất cả tấm lòng. Chỉ vì cái vết thẹo mà chiến tranh tàn khốc đã gây nên đã tạo ra những bi kịch đáng buồn, là bức rào ngăn cản cha con. Đọc tác phẩm, ta thấy trong mình sục sôi sự căm ghét chiến tranh, không những gây nên sự hy sinh đau khổ mà còn gây lên những trớ trêu mà ngay cả những đứa trẻ thơ ngây, hồn nhiên cũng phải gánh chịu. Hành động chạy vụt đi của bé Thu khi ấy cũng chỉ là xuất phát từ tình yêu mà bé dành cho cha, vì người cha trước mặt không giống với người cha trong ảnh mà mẹ đã chỉ. Bé cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, không được sống gần gũi, yêu thương của cha mà phải xa cha từ nhỏ. Nhưng vết thẹo dài trên mặt ấy chỉ là bức cản tạm thời, nó đã không che lấp được tình cha con. Tình cha con sâu nặng đã vượt lên trên tất cả sự đau thương mất mát để được bên nhau. Tuy chỉ là nhưng giây phút ngắn ngủi nhưng chứa đựng là những kỷ niệm khó quên trong tâm hồn bé Thu và ông Sáu.
Mà có lẽ, ta không thể không xúc động trước tình cảm yêu thương tha thiết của ông Sáu dành cho đứa con gái.Ôi ! ta phải thốt lên trước những hành động suy nghĩ của ông Sáu khi ở căn cứ. Vì nỗi nhớ thương con da diết đã khiến ông dồn hết tâm trí và sức lực những lúc dỗi dãi ông chau chuốt làm cho con một chiếc lược thật đẹp bằng ngà voi. Cái hình ảnh ấy cứ thấp thoáng đâu đây: "Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc". Chiếc lược đã trở thành vật thiêng liêng quý giá chứa đựng bao nỗi nhớ thương yêu con của ông Sáu. Ông đã từng tưởng tượng cái giây phút hạnh phúc khi được tận tay trao chiếc lược cho con nhưng tất cả đã trở thành kỷ niệm, ông Sáu đã hy sinh. Một lần nữa người đọc lại thấm thía về sự mất mát hy sinh của chiến tranh.
Tóm lại, khi đọc tác phẩm "Chiếc lược ngà" với cốt truyện chặt chẽ, bất ngờ đã đưa người đọc đến với tình cảm cha con sâu nặng nhưng vô cùng éo le trong cảnh ngộ chiến tranh. Qua đó Nguyễn Quang Sáng muốn gửi đến bạn đọc rằng: tình cảm cha con là một tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý đối với mỗi chúng ta. Vậy nên chúng ta hãy biết trân trọng tình cảm và quý mến tình cảm ấy.
Cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà ngắn gọn
Trong chiến tranh đau thương, chúng ta càng cảm nhận được nhiều thứ tình cảm thiêng liêng, gắn bó. Đó có thể là tình đồng chí đồng đội cùng nhau vào sinh ra tử, tình cảm thủy chung của người vợ chờ chồng,… Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm viết về tình cha con cảm động, đáng trân trọng trong thời kỳ đó.
Bé Thu – nhân vật người con trong câu truyện là một cô bé mới tầm 6 tuổi nhưng đã cho chúng ta cảm nhận được tình yêu thương cha mãnh liệt đằng sau tính cách mạnh mẽ, ngang bướng của mình. Khi ba từ chiến trường về thăm nhà, bé Thu không chịu nhận ba vì người trước mặt có vết sẹo dài bên má nhưng người cha trong tấm ảnh chụp chung với má không có nên bé Thu đã tự khẳng định rằng đó không phải ba mình. Với niềm tin đó, cô bé đã có những lời nói xa lánh, cự tuyệt ba mình, nhất định không nói ra từ "ba" dù mọi người trong nhà có dọa nạt hay dỗ dành ngon ngọt. Đến khi được bà ngoại giải thích rằng vết sẹo đó do thằng Tây gây ra, Thu đã mất ngủ cả đêm hôm đó, lăn qua lăn lại rồi thỉnh thoảng lại thở dài. Sáng hôm sau cũng là ngày ba bé Thu quay trở lại chiến trường. Vào thời khắc chia tay, cô bé đã thét gọi "ba". Tiếng ba đã kìm nén bao lâu giờ được cất lên. Tiếng gọi ấy xuất phát từ tình yêu thương ba vô cùng mãnh liệt, sâu sắc khiến cho tất cả mọi người đều cảm động. Bé Thu chạy xô tới, dang tay ôm lấy cổ ba, dang cả hai chân để ôm ba thật chặt, con bé hôn ba cùng khắp, hôn cả vết sẹo dài mà nó đã từng ghét bỏ. Đó là minh chứng rõ ràng nhất cho tình yêu ba của bé Thu.
Người cha trong câu chuyện này là anh Sáu, một người lính đã tham gia kháng chiến khi con gái mình còn chưa đầy một tuổi. Khi được nghỉ phép về nhà, anh rất háo hức, mong chờ được gặp con. Nhưng sự mong chờ ấy đã hóa thành đau khổ, thất vọng khi con bé không nhận ra anh, thậm chí còn tỏ vẻ xa lánh, ghét bỏ anh. Đỉnh điểm của nỗi thất vọng là tức giận khi anh Sáu đã lỡ tay đánh con khi bé Thu tỏ thái độ cự tuyệt mình. Anh rất ân hận về điều đó, khi quay lại chiến trường, anh cứ day dứt khôn nguôi vì lỗi lầm của mình. Khi tìm thấy miếng ngà voi, anh dồn hết tâm trí và tình yêu con của mình vào để làm một chiếc lược ngà tặng cho con gái. Trên chiếc lược, anh còn cẩn thận khắc chữ "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Từng dòng chữ như chứa đựng tất cả nỗi niềm của anh, chỉ mong nước nhà sớm độc lập để hai cha con được đoàn tụ.
Qua câu truyện trên, ta thấy thấm thía tình cảm cha con thiêng liêng, sâu đậm. Dù không nói ra nhưng cả bé Thu và ông Sáu đều có cách yêu thương riêng, khiến chúng ta thầm ngưỡng mộ và xúc động. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã rất sáng tạo khi đặt điểm nhìn của người kể chuyện vào nhân vật phụ của câu chuyện để thể hiện được thái độ, cảm xúc của cả hai nhân vật chính, cốt truyện đầy bất ngờ cũng khiến cho tình phụ tử trong câu chuyện này được nhấn mạnh sáng rõ.
Cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà
Cảm nhận tình cha con trong Chiếc lược ngà - Mẫu 1
Tình cha con rất thiêng liêng và cao cả, không khác gì so với tình mẫu tử. Có rất nhiều tác phẩm văn học viết về tình cha con rất cảm động, trong đó phải kể đến truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Tác giả đã khắc họa lại câu chuyện cảm động giữa cha con ông Sáu, người chiến sĩ xa nhà sau 8 năm mới có dịp về quê thăm con. Bé Thu không nhận ra cha nó vì vết sẹo trên mặt làm ông không giống với bức hình chụp với má mà nó đã từng biết đến, vì thế nó đối xử với ông như một người xa lạ và hết sức lạnh lùng. Đến khi nó nhận ra ông Sáu là ba, khi tình cảm cha con như bỗng nổi dậy trong người nó thì đó cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở căn cứ, nhớ đến lời hứa với con, ông Sáu đã dồn hết tình yêu thương, và sự mong nhớ con vào chiếc lược ngà mà ông đã tỉ mỉ làm miệt mài từng cái răng cho cây lược ngà chỉ có một hàng răng thưa, hay gò lưng, tẩn mẩn với từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” trên sống lược để tặng cho con gái bé bỏng của mình. Nhưng không may, trong một trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy, ông Sáu đã hy sinh. Trước khi nhắm mắt, ông chỉ còn kịp trao chiếc lược ngà cho người bạn thân – bác Ba – nhân vật kể chuyện.
Bé Thu được xuất hiện với hình ảnh là một cô bé rất cá tính, bướng bỉnh và gan góc, nhưng lại giàu tình cảm. Thái độ của nó trái ngược hoàn toàn với những ngày đầu khi ông Sáu trở về thăm nhà và lúc ông Sáu sắp ra đi, song trái ngược mà vẫn nhất quán. Có lẽ chỉ vì quá yêu ba, quá khát khao được có ba nên khi nhận định đó không phải là ba của mình thì nó nhất định không chịu nhận ông Sáu, nhất định không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nó cứng đầu thế đấy, bởi lẽ trong tâm trí của nó chỉ có duy nhất hình ảnh người cha trong tấm ảnh mà nó vẫn thường thấy mỗi ngày, chứ không phải bộ dạng của ông Sáu bây giờ. Người cha không được đứa con nhìn nhận bởi vết sẹo trên má làm mặt ông bị biến dạng và khác trước quá nhiều… Chính vết sẹo ấy là dấu tích không mong muốn của chiến tranh tàn khốc mà Thu thì còn quá nhỏ để có thể cảm nhận và hiểu được điều đó – hiểu được sự khốc liệt của bom lửa đạn, hiểu được cái cay xé của mùi thuốc súng, hiểu được sự gian nan, vất vả trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt mà người lính phải trải qua… Nhưng cũng chính từ sự kiên định, thẳng thắn, bản lĩnh và lập trường vững chắc đó đã phần nào thể hiện được hình ảnh một cô gái giao liên dũng cảm sau này.
Thu là một cô bé mới 8 tuổi nên còn rất ngây thơ và bướng bỉnh. Khi nó bị ông Sáu đánh vì cái tính ngang ngạnh, thật ngạc nhiên vì nó đã “cầm đũa, gấp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”, dường như nó sợ ông Sáu sẽ thấy được những giọt nước mắt trong chính tâm tư của nó… “Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”, trong một loạt hành động đó, dường như có điểm đối lập giữa một bên là sự già dặn và cứng cỏi, nhưng với một khía cạnh khác, nó lại muốn được yêu thương, vỗ về. Từ đó, rõ ràng cho ta thấy được cái tính cố chấp rất hồn nhiên, rất trẻ con của nó đã được khắc họa một cách rất thực và gần gũi qua nhiều chi tiết.
Hình ảnh cô bé 8 tuổi thể hiện tình cảm với người cha, đủ để người đọc nhận ra rằng, cô bé là người giàu tình cảm. Có ai ngờ được một đứa trẻ phải xa cha mình từ lúc chưa đầy một tuổi, rồi 8 năm ròng rã trôi qua vô tình … thế mà nó vẫn luôn vun đắp, ấp ủ một tình yêu mãnh liệt đến bất tận dành cho người cha thân yêu của nó. Tình yêu đó đã đánh bại được thời gian, đánh bại luôn cả khoảng cách giữa cha và con mà khoảng thời gian ấy đã tạo nên. Tình yêu thương dành cho cha của một đứa bé chỉ mới 8 tuổi mà lại dạt dào và sắc nét đến thế! Dẫu rằng người cha thân thương mà nó vẫn hằng mong chưa hề mang đến cho nó sự nâng niu, săn sóc, hay một bàn tay rộng ấm áp tình thương đến bên ân cần và che chở cho nó… Chỉ những điều đơn giản thế thôi mà ông Sáu vẫn chưa hề làm được, thì mơ gì đến việc ông làm cho nó một món đồ chơi, kể cho nó nghe một câu chuyện, hay tâm sự và sẻ chia với nó những niềm vui, nỗi buồn từ khi nó đến với thế giới này … tất cả đều quá xa vời với nó. Nó dường như không có một kỷ niệm hay một chút ấn tượng gì về cha của nó, nhưng chắc hẳn, đã không ít lần nó tự tưởng tượng ra hình ảnh người cha của nó là một người tài giỏi như thế nào, cao lớn và có một vòng tay rộng lớn, ấm áp để ôm nó vào lòng ra sao … Tình yêu mãnh liệt của nó đã ngăn không cho nó nhận người đàn ông lạ trên mặt có vết sẹo như thế kia. Mãi đến ngày ông Sáu phải lên đường, thì đứa bé bướng bỉnh và cứng cỏi của ngày hôm qua “như bị bỏ rơi”, “lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó” – dường như đó là lúc nó thèm muốn cái tình cảm ấm áp của gia đình, nó muốn ông Sáu nhận ra sự hiện diện của nó trong lúc ấy, nó muốn chạy lại hôn ba nó lắm, nhưng chẳng hiểu sao lại có một cái gì đó ngăn nó lại và làm cho nó cứ mãi đứng yên. Đến phút chia tay, ông Sáu mới nhìn sang và chào nó với một giọng khe khẽ “Thôi! Ba đi nghe con!” – thật lạ … sao chỉ là một lời chào vẻn vẹn trong bốn từ thế kia? sao ông không dặn dò hay nhắn nhủ đến nói một điều gì? có lẽ nào sự phũ phàng mà nó dành cho ông Sáu, đã làm cho ông thất vọng và tổn thương lắm nên mới như vậy? Rồi đến khi tiếng kêu của nó thét lên “Ba… a… a… ba!”, “tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”…Đến lúc ấy, mọi người mới nhận ra rằng, nó thèm muốn được gọi tiếng “ba” đến nhường nào. Tiếng “ba” mà nó đã cất lên trong nghẹn ngào, tiếng “ba” mà nó đã đè nén sau bao nhiêu năm cách biệt… nghe mới thật thiêng liêng làm sao! – Đó là tiếng kêu như vỡ tung ra từ đáy lòng của nó, “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt cổ ba nó”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”… Tất cả những điều đó đã thể hiện được một tình yêu mãnh liệt lên đến điểm cao trào nhất của đứa con dành cho ba nó, khiến mọi người xung quanh ai cũng không cầm được nước mắt trước cảnh tượng đầy xót xa ấy… Điều đó càng chứng tỏ được tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu sắc - Nó chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba.
Người cha trong câu chuyện thật đáng thương, ông rất thương và nhớ con, nhưng vì hoàn cảnh đất nước, ông phải lên đường chiến đấu. Tình cảm ấy được biểu hiện phần nào trong chuyến về quê thăm nhà. Khi xuồng chưa kịp cập bến, trông thấy con ông đã vội vàng “nhảy lên bờ, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con! ba đây con.” Cứ ngỡ rằng bé Thu sẽ chạy ào tới, ôm lấy cổ ba cho thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hụt hẫng, bất ngờ khi thấy: “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy”. Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách gần gũi, vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được. Có lúc giận quá ông đã đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu đã khiến ông cảm động “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt” – những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! Đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ông được nghe tiếng ba thân thương từ cô con gái nhỏ, bởi vì sau đó, chẳng bao giờ ông có thể trở về được nữa! Trong những ngày ở khu căn cứ, ông ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ mãi lời con dặn: “Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với ông thì đó là mơ ước đầu tiên và cũng là duy nhất, nên nó cứ mãi thôi thúc trong lòng ông. Lúc tìm được một khúc ngà, ông đã vui mừng “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Ngày qua ngày, ông cặm cụi “cưa từng răng lược, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”… Những lúc nhớ con ông lại mang cây lược ra mài lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt, tuy rằng chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông lúc này. Ông đã nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Có lẽ những lúc ấy ông mong có một lần về phép thăm nhà để tự tay mình cầm cây lược chải tóc cho con… Đau đớn thay chiến tranh khiến ông chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái được nữa. Ông bị hy sinh trong một trận càn lớn, nhưng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, ông cầm cây lược trao cho người bạn thân với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời… Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh, lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng, Chủ đề của chuyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cha con trong những tình huống éo le và cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc đặc biệt là tâm lý trẻ thơ, hơn nữa lãi có giọng văn dung di, cảm động đã giúp truyện có được vị trí riêng trong lòng độc giả.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu nặng, thắm thiết giữa ông Sáu và bé Thu, đồng thời cũng là sự tố cáo tội ác của chiến tranh đã khiến nhiều đứa con mất cha, nhiều người vợ mất chồng. Đó là những mất mát to lớn đối với mỗi con người. Qua câu chuyện tác giả muốn gửi gắm đến thế hệ trẻ, hãy tỏ ra trân trọng và biết ơn những người sinh ra mình, đó là thứ tình cảm thiêng liêng quý giá nhất trên đời.
Suy nghĩ về tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà
Nguyễn Quang Sáng quê ở tỉnh An Giang là nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Hầu hết các sáng tác của ông đều viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Trong đó có một vấn đề mà ông viết rất thành công chính là tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng. Tình cảm đó được thể hiện sâu sắc qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Đây là một câu chuyện vô cùng cảm động về tình cảm của hai cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến tranh.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là truyện ngắn khá dài được viết theo cách truyện lồng trong truyện, mà phần chính là câu chuyện của bác Ba kể về hai cha con ông Sáu. Truyện ngắn đã khẳng định một chân lý vĩnh hằng: Tình cảm gia đình, tình phụ tử là vô cùng thiêng liêng, cao đẹp, sâu nặng, nó vượt lên mọi khó khăn thậm chí trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, hiểm nguy. Đọc truyện ngắn mỗi chúng ta đều thương cảm cho hoàn cảnh của hai cha con ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến đã lâu khi con gái ông chưa đầy 1 tuổi, đến khi con bé lên 8 tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Suốt 8 năm ở chiến khu Nam Bộ, giữa hoàn cảnh khó khăn, hiểm nguy, người cha ấy luôn cháy lên khát vọng được gặp con, được ôm con vào lòng. Thế rồi hy vọng ngày gặp con đã đến, ông Sáu cùng một người bạn được về thăm nhà ba ngày trước khi lên đường nhận nhiệm vụ mới, nhưng éo le thay bé Thu - con ông đã không nhận ra cha. Diễn biến tâm lý tình cảm của bé thu được bộc lộ một cách tự nhiên và vô cùng sâu sắc.
Buổi sáng hôm đó khi đang chơi nhà chòi cùng các bạn dưới bóng cây xoài, bé Thu bỗng nghe tiếng gọi của ông Sáu, con bé giật mình tròn mắt nhìn, nó ngơ ngác sợ hãi rồi bỏ chạy kêu thét gọi má. Tại sao được gặp ba, nghe ba gọi, ba bày tỏ tình cảm mà bé Thu lại hoảng sợ như vậy. Điều này nói lên sự tàn khốc của cuộc chiến tranh, của bom đạn Mỹ. Chiến tranh bom đạn mỹ của kẻ thù làm ông Sáu bị thương trên mặt. Có vết thẹo dài khiến ông không giống với người chụp trong bức hình cũ. Chiến tranh éo le với những tình huống bất ngờ mà người lớn cũng chưa kịp chuẩn bị tâm lý để Thu đón ba.
Trong 3 ngày nghỉ phép mặc cho ông Sáu có gắn gần gũi vỗ về nhưng con bé càng đẩy ra xa. Thái độ của nó ương ngạnh bướng bỉnh thậm chí đến mức hỗn xược. Thu nhất quyết không chịu gọi một tiếng “ba”, ngay cả khi bị đẩy vào tình thế bế tắc khó xử thì nó lại nói trổng: “vô ăn cơm”, “cơm chín rồi”, “chắt nước dùm cái”, rồi còn gọi ông Sáu là “người ta”. Sự ương ngạnh bướng bỉnh của bé Thu mỗi lúc một cao, phản ứng của con bé ngày càng quyết liệt từ lời nói chuyện sang hành động. Em từ chối mọi sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu. Nó hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho làm cơm văng tung tóe cả mâm. Dù bị đánh, bị mắng nhưng bé Thu không khóc mà đã lẳng lặng đứng dậy bỏ ra ngoài, chèo xuồng sang bên ngoại. Nó còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng. Con bé thật đáo để. Diễn biến tâm lý và hành động của bé Thu đã được nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật tự nhiên, phù hợp với tâm lý của trẻ thơ. Một cô bé có cá tính mạnh mẽ, ương ngạnh, bướng bỉnh. Nhưng sự ương ngạnh, bướng bỉnh của em là không đáng trách mà nó xuất phát từ tình yêu cha sâu sắc mãnh liệt. Thu dành trọn tình cảm của mình cho một người cha duy nhất, đích thực, người cha trẻ đẹp đang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong em còn có cả một niềm tự hào kiêu hãnh về cha.
Ở bên ngoại sau khi được bà giải thích kể cho nghe về vết thẹo trên mặt của ba thì thái độ, hành động của bé Thu hoàn toàn thay đổi. Nó có vẻ hối lỗi, nằm lăn lộn, có lúc thở dài như người lớn. Tiếng thở dài chất chứa bao suy nghĩ trăn trở của một đứa trẻ mới 8 tuổi đầu. Đến sáng hôm sau con bé cùng lại trở về từ sớm, lúc thì đứng lảng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa nhìn mọi người với vẻ mặt buồn rầu chứ không bướng bỉnh nhăn mày cau có nữa. Cái nhìn của nó cũng không ngơ ngác lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Có lẽ lúc này Thu rất muốn nhận ba gọi ba, nhưng em không dám đến gần vì đã trót làm cho ba buồn, ba giận. Thế nhưng thật bất ngờ sau lời chào tạm biệt của ba, bé Thu chợt kêu hét lên: “Ba…a…a…Ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người. Đó là tiếng ba mà nó đã cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó. Tiếng gọi của nỗi nhớ mong, tình yêu thương và cả niềm ân hận, hối lỗi. Cùng với tiếng gọi ba, con bé còn có những hành động, lời nói cuống quýt. Hai tay ôm chặt lấy cổ ba, hai chân câu chặt lấy ba. Nó hôn ba nó khắp cùng, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba. Nếu những ngày qua vì vết thẹo mà bé Thu sợ hãi bỏ chạy, không nhận ra ba thì giờ đây em càng thương ba hơn. Con bé vừa ôm ba vừa nói trong tiếng khóc: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”, “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”. Những lời nói, cử chỉ của bé Thu trong giờ phút chia tay ba thật hối hải, cuống quýt. Dường như con bé đang cố gắng hết sức để bộc lộ tình cảm yêu quý ba mãnh liệt nhất, để bù đắp chuộc lại những lỗi lầm mà nó đã làm tổn thương ba trước đó. Nhưng hoàn cảnh chiến tranh thật éo le, đúng lúc bé Thu nhận ra ba thì lại là lúc hai cha con phải chia tay nhau. Cuộc chia tay của hai cha con bé Thu vô cùng cảm động khiến những người chứng kiến không kìm được nước mắt. Gần 10 năm trôi qua, sau này khi đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, Thu vẫn nhận được lại chiếc lược ngà - kỷ vật thiêng liêng của một người cha. Lúc đó, Thu vô cùng xúc động khi biết ba đã hy sinh, Thu đã khóc. Đó là những giọt nước mắt thương tiếc, xót xa, đau đớn khi Thu không còn được gặp cha, người cha chịu nhiều thiệt thòi mất mát, người cha mà Thu còn nhiều điều muốn nói.
Qua đoạn trích, người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của bé Thu: Một cô bé có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi nhưng đời sống nội tâm lại vô cùng phong phú, nhất là tình cảm của em dành cho cha. Ở Thu vừa có nét hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của một đứa trẻ, vừa có sự già dặn, cứng cáp của một em bé Nam Bộ sống trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, hiểm nguy nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật tinh tế sâu sắc diễn biến tâm lý của bé Thu điều đó cho thấy tác giả rất am hiểu tâm lý trẻ thơ và có tấm lòng yêu mến trân trọng họ.
Nhưng có lẽ cảm động hơn cả trong những trang viết của Nguyễn Quang Sáng là tình cảm của ông Sáu dành cho con gái yêu. Suốt 8 năm ở chiến trường, ông Sáu luôn khao khát được gặp con, được ôm con vào lòng. Vì vậy trên đường trở về nhà “tình người cha cứ nôn nao trong người anh”. Tình người cha thức dậy, trào dâng, anh yêu thương, mong chờ háo hức biết bao giây phút được gặp con. Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy thót lên, xô chiếc thuyền tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại gọi tên con. Bằng linh cảm cực nhạy của một người cha nên chỉ thoáng thấy một đứa trẻ trước cửa nhà, anh đã biết đó là con mình. Tiếng gọi con của anh nén chặt trong lòng bao nhiêu năm nay, giờ đây oà ra mãnh liệt. Đằng sau tiếng gọi ấy là sự hy vọng, chờ đợi đứa bé sẽ chạy tới, nhào vào lòng anh, để anh được nghe một tiếng gọi ba của con. Nhưng càng hy vọng, chờ đợi bao nhiêu thì giờ đây anh càng buồn rầu, thất vọng bấy nhiêu. Bé Thu không nhận ra ba lại còn sợ hãi bỏ chạy khiến anh vô cùng khổ tâm: “mặt sầm lại trông thật đáng thương, hai tay buông xuống như bị gãy”.
Trong ba ngày nghỉ phép, anh Sáu tìm mọi cách gần gũi, vỗ về con, suốt ngày chẳng dám đi đâu xa. Nhưng càng vỗ về thì con bé càng đẩy ra xa. Anh mong một tiếng gọi ba của con, nhưng cũng chẳng được khiến anh khổ tâm: “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi. Mọi cố gắng của anh trở nên vô nghĩa, mọi sự quan tâm của anh đều bị con chối bỏ. Có lúc giận quá không kịp suy nghĩ anh đã đánh con. Điều này khiến anh cứ ân hận day dứt mãi trong lòng.
Trong buổi chia tay con lên đường vào chiến khu, nhìn thấy con đứng trong góc nhà anh Sáu rất muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ con bỏ chạy nên anh chỉ đứng nhìn con “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Và một điều thật bất ngờ mà anh không dám nghĩ đến trong giờ phút chia tay: con anh đã nhận ra cha. Được đón nhận tình cảm của con, được nghe một tiếng gọi ba từ con, anh Sáu vô cùng hạnh phúc. Không kìm nổi xúc động, anh đã khóc: “Một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, hôn lên mái tóc của con”. Đó là giọt nước mắt của niềm sung sướng hạnh phúc vô bờ. Sau 8 năm trời xa cách, sau những thử thách khó khăn nhất, anh Sáu vẫn là một người cha hạnh phúc. Thương con nhớ con, anh rất muốn ở lại với con nhưng vì nhiệm vụ chiến đấu cao cả, anh phải lên đường. Anh Sáu ra đi với lời hứa khi về sẽ mua cho con một cây lược.
Ở chiến khu ông Sáu nhớ con thương con và cứ ân hận mãi sao mình lại đánh con. Nhớ con ông dồn hết tâm trí, công sức vào làm cây lược tặng cho con. Người đọc thật xúc động trước nét mặt hớn hở như một đứa trẻ được quà của ông khi tìm được khúc ngà voi làm được cho con. Người cha ấy đã dồn hết tình yêu thương vào việc cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược ông còn tỉ mẩn khắc lên đó dòng chữ yêu thương: “yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ ấy là tiếng nói trái tim, là tấm lòng yêu thương ấm áp của ông dành cho con gái yêu. Chiếc lược ngà trở thành một vật quý giá thiêng liêng, để mỗi khi nhớ con ông lại lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho thêm bóng, thêm mượt. Cây lược đã xoa dịu phần nào nỗi ân hận vì đã trót đánh con của ông. Cây lược ngà là cầu nối tình cảm của hai cha con ông Sáu.
Có cây lược trong tay, ông Sáu khao khát biết bao ngày trở về để trao tận tay cho con gái món quà quý giá này. Nhưng chiến tranh thật éo le, ông Sáu đã bị thương trong một trận càn quét của địch. Trước lúc hi sinh ông đã dồn hết sức lực còn lại móc cây lược đưa cho bác Ba - người đồng đội. Chỉ đến khi bác Ba hứa sẽ mang cây lược về trao tận tay cho bé Thu thì ông mới nhắm mắt đi xuôi. Ông Sáu đã hi sinh vì bom đạn Mỹ nhưng kỷ vật thiêng liêng của người cha vẫn còn, tình phụ tử vô cùng cao đẹp và bất diệt. Đến đây chúng ta càng thấm thía hơn những đau thương mất mát mà chiến tranh đã gây ra cho đồng bào miền Nam, cho nhân dân cả nước.
Ông Sáu là một người cha chịu nhiều thiệt thòi mất mát, có tình yêu thương con sâu nặng cao đẹp. Ông Sáu đã hy sinh vì bom đạn Mỹ nhưng tình cảm của ông dành cho con vẫn còn mãi mãi, tình phụ tử vô cùng thiêng liêng cao đẹp.
Câu chuyện về chiếc lược ngà khiến chúng ta vô cùng cảm động trước tình cha con thắm thiết cao đẹp và thấm thía hơn những đau thương, mất mát mà nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước nói chung phải gánh chịu do bom đạn Mỹ của kẻ thù gây ra. Đằng sau những vết thương thương chưa lành trên da thịt còn là nỗi đau tinh thần đang âm ỉ. Chiến tranh phi nghĩa đã gây ra bao cảnh chia ly, biết bao người con mất cha, vợ mất chồng, mẹ mất con. Những đau thương, mất mát đó đã được nhà văn Nguyễn Quang Sáng thể hiện xúc động trong những trang viết của mình. Điều đó chứng tỏ ông thực sự thấu hiểu, đồng cảm với những hi sinh mất mát của đồng bào.
Để thể hiện sâu sắc, cảm động tình cảm của hai cha con ông Sáu phải kể đến những thành công về mặt nghệ thuật. Trước hết là việc xây dựng tình huống truyện bất ngờ éo le phù hợp với hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc chiến tranh. Việc miêu tả tâm lí nhân vật cũng khá xuất sắc, diễn biến tình cảm của ông Sáu, nhất là tâm lý của bé Thu được bộc lộ một cách tự nhiên chân thực. Cách lựa chọn ngôi kể đặc sắc làm cho câu chuyện đảm bảo tính khách quan… Tất cả góp phần thể hiện tình cảm cha con sâu nặng cao đẹp. Truyện ngắn ra đời vào năm 1966, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt, có mất mát, đau thương nhưng truyện ngắn vẫn thấm đẫm tình người cao đẹp. Cảm hứng nhân văn sâu sắc đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Chiếc lược ngà”.
Từ tình cảm của hai cha con ông Sáu gợi cho ta suy nghĩ về tình cảm gia đình trong cuộc sống hiện nay.
Tình cảm gia đình là tình cảm tốt đẹp thiêng liêng của mỗi con người như tình cha con, mẹ con, tình anh em ruột thịt. Tình cảm gia đình được thể hiện ở sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ giữa các thành viên trong gia đình. Tình cảm gia đình còn được thể hiện ở ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên.
Tình cảm gia đình có ý nghĩa vô cùng lớn lao và mỗi người không thể sống nếu thiếu tình cảm này. Tình cảm gia đình tạo nên sức mạnh, nghị lực, niềm tin để mỗi người có thể vượt qua khó khăn, thử thách, những cám dỗ trong cuộc sống. Tình cảm gia đình là một trong những giá trị nhân văn, nhân bản của mỗi cá nhân và của cả nhân loại cần được giữ gìn và phát huy. Tình cảm gia đình tốt đẹp bền vững chính là gốc rễ để xây dựng một xã hội lành mạnh văn minh. Trong gia đình, mọi người có thương yêu nhau thì ra ngoài xã hội mới biết cảm thông chia sẻ với cộng đồng.
Tình cảm gia đình có ý nghĩa lớn lao như vậy nhưng trong xã hội vẫn còn không ít kẻ xấu vô ơn bạc nghĩa với cha mẹ, không nghe lời cha mẹ, bỏ mặc cha mẹ lúc già yếu ốm đau. Tệ bạc hơn là còn làm những điều trái với đạo đức để cha mẹ đau lòng. Hay trong gia đình anh chị em không thương yêu nhau, tranh giành của cải, cãi vã lẫn nhau. Đó là những biểu hiện suy thoái về đạo đức về nhân cách.
Hiểu được ý nghĩa của tình cảm gia đình, mỗi chúng ta phải nêu cao ý thức trách nhiệm với gia đình mình. Trân trọng, gìn giữ tình cảm gia đình, thấu hiểu đồng cảm giúp đỡ cha mẹ, yêu thương đoàn kết với anh em. Mỗi chúng ta hãy phấn đấu là một người con ngoan trò giỏi, là một người công dân tốt để giữ gìn hạnh phúc gia đình mình.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của cha con ông Sáu. Tình cảm ấy càng trở nên xúc động hơn trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến tranh. Qua truyện ngắn, người đọc thấm thía hơn những mất mát hi sinh thầm lặng của người lính, cảm động hơn trước tâm hồn chan chứa yêu thương của họ. Qua đó, chúng ta càng bất bình lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ đồng thời cũng trân trọng hơn giá trị của cuộc sống hòa bình hôm nay.
Viết đoạn văn cảm nhận tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà
Tình phụ tử luôn là đề tài rất đáng quan tâm trong văn chương. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng có nội dung kể về tình cảm cha con đặc biệt, thiêng liêng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông Sáu đi lính từ khi con mình - bé Thu mới có hơn một tuổi. Tất cả những gì Thu biết về cha là người đàn ông trẻ trung trong bức hình chụp cùng má. Cuộc chiến đấu ác liệt khiến ông Sáu có một vết thẹo dài trên mặt. Chính vì vết thẹo đó, bé Thu đã khóc thét khi lần đầu tiên nhìn thấy ba mình. Trong suốt những ngày ông Sáu được nghỉ phép ở nhà, con bé nhất quyết không chịu gọi một tiếng "ba", dù cho mọi người có nịnh nọt, dọa dẫm thế nào đi chăng nữa. Thái độ ngang bướng, lì lợm của bé Thu đều xuất phát từ tình yêu người ba trong tấm ảnh cũ. Một cô bé mới có hơn sáu tuổi, không có kí ức gì về ba của mình nhưng lại luôn giữ vững tình yêu ba cháy bỏng, mãnh liệt. Rồi trong giờ phút chia li, tình cảm ấy vỡ òa ra thành những cái hôn cùng khắp, vòng tay siết chặt không muốn để ba đi. Quay trở lại chiến khu, ông Sáu vẫn luôn thương nhớ và ân hận vì đã đánh con. Ông dồn hết tình yêu của mình để làm chiếc lược ngà tặng con. Trên lưng lược có hàng chữ được anh tỉ mỉ khắc từng nét: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Mỗi lần nhớ con bé, ông lại lấy câu lược lên ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, mượt. Tình cảm cha con trong "Chiếc lược ngà" không được thể hiện bằng các câu nói trực tiếp, hành động tình cảm thông thường. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng nội tâm nhân vật thông qua cử chỉ, suy nghĩ rất tinh tế. Từ đó, ta thấy được tình cảm cha con thiêng liêng, mãnh liệt, dù không biểu lộ trực tiếp nhưng vẫn khiến người đọc day dứt khôn nguôi.
......
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!