Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận đoạn trích Vào Phủ Chúa Trịnh Dàn ý & 3 bài văn mẫu hay nhất
Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận Vào Phủ Chúa Trịnh giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi kiến thức, biết cách làm và hướng giải quyết vấn đề. Từ đó nhanh chóng viết thành một bài phân tích hay, đầy đủ ý.
Cảm nhận Vào Phủ Chúa Trịnh không chỉ vẽ nên cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa với cung cách sinh hoạt hết sức rườm rà, cuộc sống đầy yếm khí ở nơi đây. Nhưng đồng thời sau những dòng chữ ấy còn cho thấy những nỗi niềm, cảm xúc của tác giả trước lối sống giàu sang, phú quý và tấm lòng, nhân cách cao cả của một bậc lương y.
Cảm nhận Vào Phủ Chúa Trịnh hay nhất
Dàn ý cảm nhận Vào phủ Chúa Trịnh
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Lê Hữu Trác và tác phẩm Thượng kinh kí sự
- Giới thiệu khái quát giá trị nội dung đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh
2. Thân bài
* Cảm nhận về đoạn miêu tả quang cảnh tráng lệ, xa hoa nơi phủ Chúa
- Vẻ nguy nga, tấp nập nhưng không kém phần nghiêm trang, quy củ ở bên ngoài lối vào phủ Chúa: "Chúng tôi đi cửa sau... ai muốn ra vào phải có thẻ"
- Khung cảnh tráng lệ, lộng lẫy khi đi sâu vào trong: Nhà "Đại đường", "Quyền bồng", "gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy", "mâm vàng, chén bạc"
- Con đường đến nội cung của thế tử: Qua 5, 6 lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng...., "xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt"
* Cảm nhận về đoạn miêu tả khung cảnh sinh hoạt nơi phủ Chúa với những lễ nghi, khuôn phép
- Cách nói năng, từ ngữ xưng hô khi nhắc tới Chúa và Thế tử phải cung kính, lễ độ: "Thánh thượng đang ngự ở đấy, hầu mạch, hầu trà, phòng trà,..."
- Thái độ của tác giả khi ở chốn nội cung: "nín thở đứng chờ ở xa", "khúm núm đến trước sập xem mạch", "một viên quan nội thần... lạy bốn lạy"
=> Sự uy quyền của Chúa Trịnh và thế tử; thái độ tôn nghiêm, lễ nghi trong cung cách sinh hoạt của những người sống, làm việc nơi phủ Chúa.
* Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của Lê Hữu Trác: Con người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý, không đồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi chốn phủ chúa; người thầy thuốc có tấm lòng lương y cao đẹp, có kiến thức sâu rộng và dày dạn kinh nghiệm.
3. Kết bài
Nêu cảm xúc và suy nghĩ của bản thân về đoạn trích.
Cảm nhận đoạn trích Vào Phủ Chúa Trịnh - Mẫu 1
Con người phấn đấu làm việc cũng chỉ mong có cuộc sống khá giả hơn, thế nhưng có những người sinh ra vốn đã có tất cả. Họ có tiền tài, địa vị và có cả quyền lực, bởi thế cuộc sống trở nên quá dễ dàng. Và cuộc sống xa xỉ, sung sướng không tưởng của vua chúa thời xưa được khắc họa rõ nét qua tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác.
Bước vào trong tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” là người đọc được đến với một thế giới khác, được chứng kiến một cuộc sống ở trên trời mà thường dân có mơ cũng không tưởng tượng nổi. Đó là những tòa cung điện nguy nga tráng lệ, là đồ đạc được sơn son thiếp vàng. Mọi thứ đều cao sang quyền quý, đến ngay cả hương thơm trong phủ cũng đậm chất quý tộc. Đứng trước cảnh vật diễm lệ, lộng lẫy kiêu sa của phủ chúa không chỉ có người chứng kiến bị choáng ngợp mà đối với người đọc chỉ cần tưởng tượng ra thôi cũng thấy đó là cả một chân trời bát ngát quyền quý mà chúng ta có mơ cũng không tưởng tượng ra nổi. Người ta nói mỗi chuyến đi là một lần mở mang tri thức quả thật không sai, với chuyến đi chữa bệnh lần này Lê Hữu Trác đã được mở mang tầm mắt.
Đẳng cấp của phủ chúa không chỉ dừng lại ở cảnh vật mà còn thể hiện ở cả cung cách sinh hoạt. Khắp nơi trong phủ luôn có kẻ hầu người hạ tấp nập, Lê Hữu Trác được người dẫn đi bằng cửa sau, nhưng đứng trước cảnh tượng tráng lệ ấy khiến ông chỉ dám ngẩng đầu lên rồi lại cúi xuống bước đi từng bước trong sự choáng ngợp. Có lẽ chu du khắp nơi cả cuộc đời, tận mắt chứng kiến nhiều thứ và tưởng rằng không còn thứ gì mà mình không biết, thế nhưng hiểu biết của ông vẫn còn quá hạn hẹp, ông cảm thấy mình trở nên nhỏ bé trước cảnh vật, nét đẹp cao sang khiến người chứng kiến nó cảm thấy bị áp lực. Và ông đã thực sự bị sốc trước những gì mà mình đang được nhìn thấy.
Buổi ấy, Lê Hữu Trác được ăn cơm ở trong phủ, dù chỉ là được quan Chánh đường san mâm cơm cho ăn thôi thế nhưng nó cũng sang trọng quá mức tưởng tượng. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn thứ sơn hào hải vị ở trên đời và ngon không tưởng. Buổi đấy có lẽ là bữa cơm sang trọng nhất cuộc đời và khiến ông nhớ mãi. Lê Hữu Trác được triệu vào phủ để chữa bệnh cho thế tử, người là đứa trẻ khoảng tầm 5, 6 tuổi thôi thế nhưng lại được thờ phụng và chăm sóc tuyệt đối. Thế tử không có tuổi thơ rong chơi, lăn lộn vui vẻ như những đứa trẻ khác. Vì thế tử cũng tức là con trời vậy nên vận mệnh của đứa con ấy phải hoàn toàn khác. Nó được nuôi nấng chu đáo từ nhỏ, được bao bọc và bảo vệ như những đứa bé được nuôi trong lồng kính, và có lẽ cũng vì sống quá sung sướng mà đâm sinh bệnh. Vì ít vận động lại thêm được bảo vệ quá mức nên gầy yếu, xanh xao, khí huyết bị tổn hại nghiêm trọng. Cuộc sống quá sung sướng như vậy lại đối lập hoàn toàn với con dân thiên hạ. Trong khi ngoài kia nhiều đứa trẻ bị chết lạnh, chết đói thì lại có người sinh bệnh vì ăn ở quá “lành mạnh”. Và đó cũng là thực trạng xã hội lúc bấy giờ, người dân nghèo khổ bị bóc lột kiệt quệ, họ không còn làm chủ được cuộc đời của mình và phải chịu kiếp làm trâu làm ngựa cho kẻ khác. Tiền của, máu xương của họ bị bóc lột để hầu hạ những kẻ may mắn vốn sinh ra chốn quyền quý.
Qua “Vào phủ chúa Trịnh”, ta không chỉ thấy được sự thối nát, mục ruỗng của chế độ lúc đó mà còn thấy được giá trị tố cáo sâu sắc khi tước đoạt sức lực, của cải của con người. Thật đáng buồn cho kẻ làm vua nhưng không nắm được trong tay quyền lực mà chỉ loay hoay làm con rối cho kẻ khác, vua Lê tuy có tất cả nhưng thiếu đi mất cái ý chí, suy nghĩ của bản thân để rồi làm vật trang trí cho kẻ nắm giữ quyền lực. Và cũng từ tác phẩm ta nhận ra được tâm hồn của một lương y yêu thương con người, trân trọng tự do của cuộc đời mình. Chẳng vậy mà khi chuẩn bệnh cho thế tử ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn mà không một lần chữa khỏi cho thế tử, có lẽ vì ông sợ tiền tài danh vọng sẽ tước mát tự do của mình. Sau cũng thì tự do tự tại và sống vì người khác vẫn là lẽ sống của nhân tài bấy lâu nay.
Trong cuộc sống vẫn còn nhiều mảnh đời bất hạnh, vẫn còn bất công và đau đớn. Vậy nên con người phải không ngừng phấn đấu và cải thiện để cùng nhau tạo ra một xã hội văn minh hơn, loại bỏ đi bất công và bóc lột. Và sau nhiều day dứt đấu tranh cuối cùng nhân loại cũng đã làm được, giờ đây chúng ta đã có cuộc sống no đủ, không còn phải vật vã đấu tranh để đòi quyền sống và quyền tự do của bản thân nữa. Nhưng bình yên nào mà không có đớn đau, chúng ta phải sống cho cả những người đã hy sinh xương máu để đấu lật đổ cái thối nát của xã hội. Tất cả phải sống tốt để không còn những cảnh bất công sống lệch như trong “Vào phủ chúa Trịnh”.
Cảm nhận văn bản Vào Phủ Chúa Trịnh - Mẫu 2
Lê Hữu Trác là một danh y lỗi lạc, một nhà văn tài hoa, dù đã có một thời gian ông theo nghề võ nhưng cuối cùng ông nhận thấy "ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người". Cũng bởi vậy, từ đó, ông chuyên sâu nghiên cứu y học và để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm "Thượng kinh kí sự" - một cuốn sách y học, một tác phẩm văn học đặc sắc. Với Thượng kinh kí sự, tác giả đã ghi lại một cách chân thực, sâu sắc cảm nhận của bản thân trước những gì tai nghe mắt thấy ở phủ Chúa. Và có thể nói, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" đã góp phần sâu sắc trong việc thể hiện giá trị của tác phẩm.
Đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" đã thuật lại một cách chân thực, sinh động việc Lê Hữu Trác vào phủ chúa Trịnh để khám bệnh cho thế tử Cán.
Trước hết, tác giả đã miêu tả một cách chân thực, tỉ mỉ quang cảnh tráng lệ, xa hoa nơi phủ Chúa. Có thể nói, quang cảnh nơi phủ Chúa đã được miêu tả lại theo bước chân của người dẫn đường, đi từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, từ đó gợi lên trong người đọc một cách nhìn toàn diện về không gian, quang cảnh nơi phủ chúa. Hãy đọc lại những câu văn tác giả miêu tả quang cảnh bên ngoài lối vào phủ chúa để thấy hết cái vẻ tráng lệ của nơi đây "Chúng tôi đi cửa sau vào phủ. Người truyền mệnh dẫn tôi qua mấy lần của nữa, theo đường bên trái mà đi. Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan lại như mắc cửi. Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ".Vâng, chỉ với bấy nhiêu chi tiết thôi, cũng đủ để chúng ta thấy hết các vẻ nguy nga, tấp nập nhưng cũng không kém phần nghiêm trang, quy củ nơi phủ chúa. Nhưng không dừng lại ở đó, quang cảnh nơi phủ chúa còn được tác giả miêu tả cụ thể hơn khi theo bước chân đi sâu vào trong, đó là khung cảnh tráng lệ, lộng lẫy, không nơi nào sánh bằng, đó là nhà "Đại đường", "Quyền bồng", "gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và " những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy". Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là " mâm vàng, chén bạc". Đặc biệt, để đến được nội cung của thế tử phải qua năm, sáu lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, "xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt"...
Đồng thời, đoạn trích còn miêu tả khung cảnh sinh hoạt nơi phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép. Những lễ nghi, khuôn phép trong cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa trước hết thể hiện qua cách nói năng, từ ngữ xưng hô khi nhắc tới chúa và thế tử phải luôn luôn là những từ ngữ cung kính, lễ độ: Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử (xem mạch cho thế tử) , hầu trà (cho thế tử uống thuốc), phòng trà (nơi thế tử uống thuốc). Đồng thời, sự uy nghiêm trong cách sinh hoạt còn được thể hiện gián tiếp qua thái độ của tác giả khi ở chốn nội cung, phải "nín thở đứng chờ ở xa", "khúm núm đến trước sập xem mạch" và đặc biệt qua cách tác giả miêu tả khung cảnh khám bệnh cho thế tử "Một viên quan nội thần đứng chầu đến bên xin phép thế tử. Thế tử đứng dậy, cởi áo, đứng bên giường cho tôi xem. Tôi xem kĩ tất cả lưng, bụng và chân tay một lượt. Quan cháng đường bảo lại truyền mệnh bảo tôi lạy tạ rồi đi ra. Tôi đứng dậy lạy bốn lạy". Chắc hẳn, chỉ qua một vài chi tiết ấy thôi cũng đủ để chúng ta cảm nhận hết cái sự uy quyền của chúa Trịnh và thế tử cùng thái độ tôn nghiêm, lễ nghi trong cung cách sinh hoạt của những người sống, làm việc nơi phủ Chúa.
Như vậy, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" đã miêu tả một cách chân thực, chi tiết, tỉ mỉ quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa, để rồi ẩn sau đó giúp chúng ta nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của Lê Hữu Trác. Đó là một con người con thường danh lợi, vinh hoa, phú quý - ông không đồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi chốn phủ chúa. Đồng thời, ông còn hiện lên với tư cách là một người thầy thuốc có tấm lòng lương y, có kiến thức sâu rộng và dày dặn kinh nghiệm.
Tóm lại, với lối miêu tả tỉ mỉ, chân thực, sự đan xen giữa kể và tả, giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã vẽ lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa Trịnh, đồng thời, qua đó cũng giúp chúng ta thấy được tài năng, vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Cảm nhận Vào Phủ Chúa Trịnh - Mẫu 3
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn "Thượng kinh kí sự" (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi "cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường". Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: "Cả trời Nam sang nhất là đây!" Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết dến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm dọc đường đi dược kết thúc bằng câu:
"Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lẩn quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. "Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương." Được ngồi trên cáng để vào phủ mà "khổ không nói hết". Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn "rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào".
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. "Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ" chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc "nhân gian chưa từng thấy". Tác giả chỉ dám "ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn đươc bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. "Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghỉ: "Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được". Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử "phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu", vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lượng tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.