Phân tích bài thơ Dương phụ hành (Dàn ý + 2 Mẫu) Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích Dương phụ hành của Cao Bá Quát gồm 2 mẫu khác nhau cực hay, chi tiết nhất kèm theo gợi ý cách viết. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý học tập để biết cách phân tích đánh giá bài thơ hay.
Dương Phụ Hành là một tác phẩm rất hay chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, ca ngợi khát khao hạnh phúc, tự do đáng quý của con người và cho ta thấy cái nhìn hiện thực đầy phóng khoáng của Cao Bá Quát. Vậy sau đây là 2 bài văn mẫu phân tích Dương phụ hành mời các bạn cùng theo dõi tại đây.
Phân tích Dương phụ hành hay nhất
Dàn ý phân tích Dương phụ hành
I. Mở bài
Giới thiệu sơ lược các thông tin về tác giả, tác phẩm.
II. Thân bài
1. Tác giả
- Là một trong các nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XIX.
- Nhân cách: cứng rắn, ngang tàn.
- Phong cách nghệ thuật: phong phú trong nội dung, cảm hứng sáng tác.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm Dương Phụ Hành được Cao Bá Quát sáng tác trong lần ông có dịp theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán bên Indonesia.
- Nội dung: nói về người đàn bà Phương Tây đã gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.
3. Tổng kết giá trị nghệ thuật mà tác phẩm mang tới
III. Kết bài
Nêu cảm nghĩ của bản thân.
Phân tích bài Dương phụ hành
Trong cuộc đời chìm nổi của mình, Cao Bá Quát có dịp đi lại nhiều nơi. Nhà thơ ở vào số ít các quan lại triều Nguyễn được ra nước ngoài. Đó là khoảng cuối năm 1841, hoặc đầu năm 1842, sau khi ông bị triều đình bắt giam vì tội sửa hộ bài thi của thí sinh. Chuyến đi ấy thật ra cũng chẳng có gì là vẻ vang, bởi phái đoàn của ông sang Indonesia và Campuchia nhằm mục đích đem đường đi bán để đổi lấy những thứ hàng xa xỉ về cho triều đình. Với Cao Bá Quát, có thể đây lại là dịp may, vì nhà thơ được có dịp ra khỏi một đất nước đang bế quan toả cảng, nhìn ngắm thiên hạ.
Trong chuyến đi ấy, Cao Bá Quát đã sáng tác khá nhiều thơ. Bài Dương phụ hành là một trong những bài được viết trong cuộc hành trình vất vả đó. Bài thơ thế hiện cái nhìn tinh tế, phóng khoáng của một vị quan phương Đông, vốn là nơi rất cổ hủ, khắt khe, đối với cảnh tình tự, âu yếm của một đôi vợ chồng trẻ Tây dương. Chính vì lẽ đó, có người đã xem đây như một “bài kí”.
Phiên âm:
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lăng kiên toạ thanh nguyệt,
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh,
Bá duệ nâm nâm hướng lặng thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cảnh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa:
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rẩm với chàng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Nghiêng mình đòi chồng nâng dậy,
Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt ly.
Đúng! Dương phụ hành là một bài kí bằng thơ kể chuyện vào một đêm thanh vắng, giữa biển cả, có một người phụ nữ (Tây dương) đang nũng nịu với chồng. Nàng có thấy ánh đèn sáng ở một chiếc thuyền gần đó (Nam thuyền). Song, mặc, bây giờ nàng chỉ biết có chồng. Gió bể thổi lạnh đến không chịu nổi (Dạ hàn vô ná hải phong xuy), nàng cùng mặc. Tình yêu khiến người ta có thể quên đi tất cả!
Câu chuyện kể ra cũng là thường tình. Cặp vợ chồng ấm êm nào, nhất là trong hoàn cảnh đang đi xa, lại không có được? Nhưng ở vào thời Cao Bá Quát và mãi về sau, cảnh ấy với người phương Đông lạ lắm. Ngay cả khi là vợ chồng, trước mặt người khác, mà tỏ ra ân cần, gần gũi đã khó chấp nhận, huống chi là âu yếm với nhau. Những kẻ có quyền cao, chức trọng là đấng “quân tử”, càng không thể, cho dù trong lòng anh ta có muốn đi chăng nữa. Vì thế, trong ca dao đã có lời giễu cợt: Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan lớn tần mần như ma, Hay như ông Tổng đốc Hồ Tôn Hiến trong Truyện Kiều đã như ngây dại trước vẻ đẹp và tiếng đàn rỉ máu của Thuý Kiều, nhưng cảnh ấy cũng diễn ra kín đáo, trong phút chốc nên Nguyễn Du mới lấy làm lạ: Còn bình thường, quan Tổng đốc là “mặt sắt đen sì”, nghiêm trang, oai nghi lắm!
Vậy thì, có gì đáng nói ở cảnh trên Tây thuyền đêm ấy? Cái lạ là con người đang lặng lẽ ngắm nhìn, thậm chí tỉ mỉ nữa. Người ấy nhìn thấy tất cả mọi chi tiết của cảnh tượng kia: thiếu phụ là người Tây dương; nàng mặc chiếc áo trắng như tuyết; nàng tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh; nàng nhìn sang Nam thuyền thấy đèn sáng trưng rồi kéo áo chồng ríu rít chuyện trò… Đến chi tiết nhỏ: người thiếu phụ cầm cốc sữa trên tay với dáng vẻ hờ hững, uể oải (sữa đối với nàng có quan trọng gì đâu!). Đã thế, nàng còn nũng nịu đòi chồng nâng mình dậy. Bài thơ như một cuốn phim quay chậm, từng chi tiết một hiện ra, không sót bất kì hình ảnh nào. Dù hai thuyền khác nhau, nhưng qua cách miêu tả, ta thấy gần lắm. Cặp uyên ương kia dường như chẳng để ý tới ai. Và, cái người đang lặng lẽ nhìn ngắm kia mới lặng lẽ, kín đáo làm sao! Người ấy quan sát tỉ mỉ chứ không phải tò mò. Đôi mắt ông không hề xoi mói. Trái lại, cảnh ấy như là chuyện đương nhiên, bình thường ở trên đời. Đây mới chính là cái lạ của bài thơ. Cao Bá Quát là nhà nho lẽ ra phải “khó chịu” với cảnh đó, nhưng nhà thơ lại nhìn chúng bình thường chẳng phải là điều rất lạ sao?
Song, vấn đề đâu chi là nhìn ngắm một cặp uyên ương đang tình tự. Đấy còn là một quan niệm sống, một cách nhìn đời. Cách nhìn đời đó hoàn toàn trái ngược với “chính thống”. Cho rằng Dương phụ hành thể hiện cái nhìn phóng khoáng, bao dung của Cao Bá Quát thì chưa đủ. Ánh mắt ấy thể hiện một tư tưởng, tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, đề cao hạnh phúc trần thế của con người, đối lập quyết liệt với tư tưởng, đạo đức phong kiến mà đến thời Cao Bá Quát đã trở thành gông xiềng ghì siết lấy con người. Nói vui, triều đình Huế gồm rất nhiều ông quan hay chữ, kể cả Tự Đức cũng là một ông vua khá hay chữ. Lẽ ra, sau chuyến Cao Bá Quát xuất dương hiệu lực, họ nên đọc thơ ông thì hẳn sẽ không có một Quốc sư của Lê Duy Cự trong cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (1853)! Mà chẳng phải đến bài thơ Dương phụ hành tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa mới bộc lộ mạnh mẽ ở Cao Bá Quát.
Bài thơ có 8 câu thì 7 câu đầu là miêu tả cảnh trên tàu Tây dương, thể hiện khách thể. Qua sự miêu tả ấy, ta hiểu tư tưởng của Cao Bá Quát. Nhà thơ chỉ dành có một câu để nói về mình:
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
(Biết đâu nỗi khách đang sầu biệt li)
Chỉ có một câu thơ thôi nhưng người đọc giật mình, thảng thốt. Hoá ra, con người suốt từ đầu đến giờ cứ lặng lẽ ngắm nhìn đôi uyên ương kia đang đau đớn nhường nào! Câu thơ ấy cung xoá đi ý nghĩ cho rằng con người đó nhìn đôi uyên ương khá tò mò. Không! Mắt ông đang nhìn chăm chú, không bỏ sót chi tiết nào nhưng lòng lại nghĩ về hướng khác, hướng của quê nhà, nơi mịt mù xa cách. Như đã nói, cả bảy câu thơ trên bộc lộ một tư tưởng, còn chỉ một câu thơ cuối lại bày ra cả một nỗi lòng. Thế là, tất cả trên kia đều đối lập với nó. Nào là bầu trời cùng ánh trăng thanh, nào là cảnh thiết tha thân mật, nào là những cơn gió bể buốt lạnh… Khi nào cũng vậy Cao Chu Thần luồn đối lập, luôn một mình trơ trọi trên thế gian. Không một ai có thể chia sẻ cùng ông!
Câu thơ cuối trở thành câu thơ hay nhất của bài Dương phụ hành. Chúng ta khâm phục, chia sẻ với những khát vọng nhân đạo chủ nghĩa ở nhà thơ. Chúng ta càng đau đớn với tấm lòng giàu tình yêu thương của ông. Cao Bá Quát sừng sững một khí phách và cũng biết bao ân tình của một trái tim dào dạt, mềm yếu!
Một điều cũng nên lưu ý. Đó là cấu trúc của bài thơ. Nhiều tập thơ Cao Bá Quát in liền như là một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. Sách giáo khoa Văn học II (NXB Giáo dục, 2004, tr.20) in thành hai khổ, mỗi khổ bốn câu. Lẽ thường khi tách ra như thế phải đánh số (1 và 2), bài thơ có hai thủ. Tuy nhiên, Dương phụ hành không giống với những bài thơ hai thủ khác. Bốn câu đầu có vần “uyết” bốn câu sau là vần “i”. Song, Dương phụ hành không thể tách ra thành hai bài thơ tứ tuyệt độc lập, dù chỉ tạm thời vì hình tượng thơ thống nhất. Nếu tách ra, không ai hiểu gì cả! Như vậy sự chia cắt, phân bố có vẻ rõ ràng kia chỉ là bề ngoài, mang tính hình thức. Chắc chắn “thánh thơ” Cao Bá Quát khá rành rè về cấu trúc, âm luật của thể thơ Đường. Ông làm như thế hẳn là cố tình. Cả bài thơ có nhiều sự đối lập (và ngay cả hình thức!). Vì thế, nỗi lòng của người đang ôm nỗi sầu “biệt ly”, dù được miêu tả rất ít (có một câu thơ) nhưng nó như chiếc neo đã thả xuống biển, và biết bao năm rồi nỗi sầu ấy không tan!
Phân tích Dương phụ hành
Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng. Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời. Đặc biệt, khác với nhiều cây bút cùng thời, qua sáng tác của mình, Cao Bá Quát bộc lộ một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm tiếp nhận những hương vị, màu sắc xa lạ với quan niệm truyền thống và một tâm hồn phóng khoáng biết hướng tới cái đẹp đích thực không bị bó buộc, đóng khung bởi những khuôn khổ của tình cảm theo lễ giáo Khổng - Mạnh.
Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được “dương trình hiệu lực” nhưng thực chất là điều đi phục dịch để “lấy công chuộc tội”. Tuy thế “có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm”, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn. Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,
Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năng lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng - “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám "tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm trăng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’" như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người. Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rầm rì nói với nhau
Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy.
Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc. Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.
Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:
Biết đâu nỗi khách biệt li này!
Tưởng đâu là nỗi sầu xa xứ. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.