Văn mẫu lớp 12: Nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống (Dàn ý + 6 mẫu) Nghị luận về thơ ca
Nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống tổng hợp 6 mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết ấn tượng nhất để các bạn tham khảo. Qua đó các em biết cách chọn lọc ý tưởng nắm được cách triển khai bài văn nghị luận văn học về thơ hay.
TOP 6 bài nghị luận văn học về thơ cực chất dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các em tham khảo. Đồng thời qua bài nghị luận về thơ chúng ta hiểu rõ được được chức năng vai trò của thơ ca đối với cuộc sống của chúng ta. Ngoài ra các bạn xem thêm: nghị luận về theo đuổi ước mơ, nghị luận xã hội về kỹ năng sống, nghị luận về ý thức học tập của học sinh hiện nay.
Nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống
- 1. Dàn ý nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống
- 2. Nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống ngắn gọn
- 3. Vai trò của thơ ca đối với cuộc sống con người (5 Mẫu)
1. Dàn ý nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống
1. Mở bài
Dẫn dắt vấn đề: vai trò, tác dụng của thơ ca đối với cuộc sống.
2. Thân bài
a. Giải thích về chức năng của thơ ca nghệ thuật
- Bất cứ phong cách ngôn ngữ nào cũng có chức năng riêng của nó. Thơ ca thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
- Nó không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
b. Bàn về chức năng nhận thức, giáo dục
- Thơ ca gửi gắm những giá trị đạo đức nhân sinh một cách khéo léo, tinh tế.
- Thơ ca góp phần nâng cao tri thức đời sống bằng chính cách riêng của nó mà hiệu quả thì không thua bất cứ hình thức truyền đạt nào.
c. Bàn về chức năng giao tiếp, tình cảm
- Chức năng này làm cho thơ ca có sức mạnh và sức sống vượt ra ranh giới không thời gian, tác động mãnh liệt vào trái tim con người.
- Thơ ca bắt đầu bằng những cảm động của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống, truyền tải qua đường dẫn là ngôn từ nghệ thuật và rồi đến và lay động tình cảm của người đọc.
c. Bàn về chức năng thẩm mĩ
- Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nên tính thẩm mĩ là đặc trưng của nó.
- Thơ ca có tác động mạnh mẽ đến năng lực thẩm mĩ của con người.
=> Nó giúp con người nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp, cái đẹp của ngôn từ và qua ngôn từ sẽ cảm nhận những cái đẹp của thế giới khách quan.
3. Kết bài
Suy nghĩ, đánh giá của người viết về vai trò của thơ ca.
2. Nghị luận về vai trò của thơ ca trong cuộc sống ngắn gọn
Một trong những thể loại văn học quan trọng là thơ ca. Với những đặc trưng về thể loại, thơ ca mang những vai trò riêng. Mà trước hết, tác giả mượn thơ ca để gửi gắm tình cảm, tâm hồn của mình. Ngắn gọn nhưng giàu hình ảnh, nhịp điệu bởi vậy mà thơ có khả năng truyền tải cảm xúc, đi thẳng vào tâm hồn của con người. Cùng với đó, thơ ca cũng trở nên dễ nhớ, dễ hiểu nhưng vẫn có tính giáo dục nhân văn, sâu sắc. Ngôn ngữ của các thể loại văn xuôi lôi cuốn người đọc như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Còn ngôn ngữ của thơ ca đi thẳng vào tình cảm, không quanh co. Bởi vậy mà đọc thơ, người đọc như đang trò chuyện với chính tác giả, thấu hiểu mọi tâm tư.
3. Vai trò của thơ ca đối với cuộc sống con người (5 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Thơ ca đã từ lâu trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Với ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu của loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình, có thanh điệu, thơ ca đã góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, tạo nên những khoảnh khắc tinh tế và sâu sắc cho con người trong cuộc sống hàng ngày. Qua thơ, người Việt tìm thấy niềm vui, sự an ủi, và cảm hứng để đối mặt với khó khăn, thử thách. Thơ cũng là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống với hiện đại, giúp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Trong từng giai đoạn lịch sử, thơ ca còn thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí bất khuất của người Việt, đồng thời mở ra không gian để mỗi người được bày tinh thần nhân đạo sâu sắc. Như vậy, thơ ca không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tạo mà còn là nguồn sức mạnh tinh thần, giúp con người Việt Nam gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Khi tiếng nói của còn chập chững, những vần thơ ca dao đã cất tiếng hát, vang vọng tâm hồn bình dị, chất phác của người lao động Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ca dao vẫn giữ vị trí độc tôn trong kho tàng văn học dân gian, là minh chứng cho sức sáng tạo và trí tuệ phi thường của người Việt trong lĩnh vực thơ ca. Ra đời trước cả chữ viết, ca dao là tiếng nói chung của cộng đồng, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, đạo đức, tình cảm của người Việt. Những câu ca dao mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng niềm yêu lao động, yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, và cả những ước mơ, khát vọng bình dị của con người. Thể thơ lục bát được sử dụng chủ yếu trong ca dao bởi nó gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Nhịp thơ chẵn với những vần lưng và vần chân liên tục dễ thuộc đã khiến ca dao trở nên gắn bó với đời sống con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ca dao không chỉ là tiếng lòng của người lao động, mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhà văn. Từ ca dao, những áng thơ văn bất hủ được ra đời, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học nước nhà. Ngày nay, dù xã hội đã phát triển hiện đại, ca dao vẫn giữ nguyên giá trị và vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ca dao là lời nhắc nhở về cội nguồn, về những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cần được gìn giữ và phát huy.
Thơ ca trung đại Việt Nam là một bức tranh đa sắc, phản ánh nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó nổi bật là lòng yêu nước và tinh thần nhân đạo. Khi đất nước lâm nguy, lòng yêu nước được thể hiện qua những lời thề quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền non sông. Tiêu biểu là bài thơ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt với khí phách hào hùng, khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Hay trong thơ ca thời Trần, "hào khí Đông A" vang dội thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng quân Nguyên Mông trong bài “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bên cạnh đó, tinh thần nhân đạo cũng là một giá trị nhân văn cao đẹp được thể hiện trong thơ ca trung đại. Khi xã hội phong kiến khủng hoảng, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn, thơ ca đã lên tiếng đồng cảm với những số phận bất hạnh, là tiếng nói bênh vực cho những người yếu thế. Tiêu biểu là các tác phẩm "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, hay "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du. Thơ ca trung đại đã góp phần khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo trong mỗi người dân Việt Nam. Những vần thơ hào hùng, những tiếng lòng đồng cảm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, là nguồn sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Lịch sử chứng kiến những cuộc giao lưu văn hóa có vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và phong phú thêm quan niệm thơ ca. Những cuộc giao thương, di dân, hội nhập mang đến cho thơ những luồng gió mới, thúc đẩy sự phát triển và biến đổi trong quan niệm sáng tác. Sự giao thoa văn hóa ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào? Có thể nói, sự giao thoa đã mang đến những quan niệm mới, góc nhìn mới và thúc đẩy sự sáng tạo về thơ: Khi văn hóa Việt cọ xát với văn hóa Pháp, những quan niệm thẩm mỹ mới được du nhập, tác động đến cách nhìn nhận và sáng tác thơ ca. Ví dụ, sự du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam đầu thế kỷ XX đã góp phần thúc đẩy phong trào Thơ mới, với những quan niệm mới về thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, và cả quan niệm về cái đẹp. Giao thoa văn hóa giúp các nhà thơ tiếp cận với những cách nhìn nhận mới về thế giới, về con người, từ đó khơi nguồn cảm hứng sáng tác và tạo nên những tác phẩm độc đáo. Việc tiếp xúc với những nền văn hóa khác nhau khơi gợi sự sáng tạo, giúp các nhà thơ tìm tòi, thử nghiệm những phương thức biểu đạt mới, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ thơ ca. Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) là ví dụ điển hình cho sự ảnh hưởng của giao thoa văn hóa trong thơ ca. Thơ mới chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, thể hiện qua sự đổi mới về thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, và quan niệm về cái đẹp. Các nhà thơ Thơ mới hướng đến thể hiện cái tôi cá nhân, chú trọng đến cảm xúc và những rung động nội tâm. Năm 1921, Phạm Quỳnh trong bài viết “thơ là gì?” sau khi phân tích nguyên tắc nguồn gốc của thơ theo tinh thần tiếp thu văn hóa Phương Tây, đã viết: “Nói tóm lại thời thơ là uyên nguyên ở âm nhạc âm thầm mà cứu cánh ở triết lí sáng sủa” . Câu trên có thể viết lại theo văn phong hiện đại là như thế này: Tóm lại thì, thơ có gốc xuất phát âm thầm từ nhạc tính nhưng mục đích cuối cùng là ở tư tưởng triết lí sáng rõ. Như vậy, mục tiêu triết lí sáng sủa của thơ ca chính là quan niệm mới từ phương Tây, so với tình cảm, âm điệu và ý nghĩa của quan niệm thơ phương Đông. Giao thoa văn hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thơ ca. Nó mang đến những quan niệm mới, khai mở những góc nhìn mới, và thúc đẩy sự sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm diện mạo của thơ ca qua từng giai đoạn lịch sử.
Thơ ca Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã thực hiện một sứ mệnh lịch sử cao đẹp: cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, đồng thời phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ - thi sĩ. Sứ mệnh cổ vũ, động viên trong thơ trước hết là tiếng nói của lòng yêu nước, thể hiện niềm tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu và tinh thần hy sinh anh dũng của quân và dân ta. Những bài thơ như "Sáng tháng năm" (Tố Hữu), "Việt Bắc" (Tố Hữu), "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm) đã trở thành những khúc ca hùng tráng, khơi dậy lòng yêu nước và ý chí chiến đấu trong mỗi người dân Việt Nam. Ngoài ra, sứ mệnh phản ánh vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ - thi sĩ cũng là một sứ mệnh của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Nhiều tập thơ, bài thơ ra đời trong thời gian 1945-1975 đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ: dũng cảm, kiên cường, lạc quan, yêu nước, yêu thương đồng đội. Đồng thời, nhiều tác phẩm cũng thể hiện những rung động tinh tế của tâm hồn người chiến sĩ: nỗi nhớ quê hương, người thân, tình yêu đôi lứa, và niềm khao khát hòa bình. Có thể khẳng định, thơ ca trong hai cuộc kháng chiến đã góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thơ ca đã cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, đồng thời phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ - thi sĩ.
Thế giới của chúng ta còn nhiều cách biệt giữa các dân tộc, nhưng thơ ca chính là cầu nối, là bàn tay chân thành, là giọng nói ấm áp giúp chúng ta tìm đến nhau, cảm thông và thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn, cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của mỗi dân tộc. Thơ ca là tiếng nói chung của nhân loại, vượt qua mọi rào cản về ngôn ngữ, văn hóa và địa lý. Những vần thơ chứa đựng những cảm xúc chân thành, những rung động tinh tế của con người trước cuộc sống. Thơ ca giúp chúng ta hiểu được những niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ và khát vọng của con người ở mọi nơi trên thế giới. Năm 1912, tập “Thơ Dâng” của nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore xuất bản ở Anh và đã tạo nên những mối đồng cảm to lớn từ các nhà thơ Châu Âu khiến họ phải thốt lên những lời có cánh: “Tôi đọc nó trên tàu, trên đỉnh núi, trong các tiệm ăn và tôi thường phải dùng nó để che giấu những người lạ khỏi nhìn tôi kẻo họ sẽ thấy tôi đang xúc động đến mức nào. Những bài thơ trữ tình đó đã chỉ ra một thế giới mà tôi từng mơ thấy từ rất lâu” (William Yeats, thi hào Ireland); “Khi rời Tagore, tôi cảm thấy dường như mình là một tên man rợ mặc da thú và cầm chùy đá vậy” (Ezra Pound- nhà thơ Mỹ); “Không có nhà thơ ở châu Âu nào kể từ cái chết của Goethe vào năm 1832 có thể sánh được với Tagore về nhân cách cao cả, về sự vĩ đại tự nhiên, về sự thanh thoát hài hòa” (thư kí Hội đồng giải Nobel). Ở Việt Nam, năm 1929, nhân sự kiện Tagore ghé thăm Sài Gòn trong ba ngày (từ 21/6) và nghỉ tại khách sạn Continental, nhà thơ Đông Hồ đã dịch bài số 35 và bài số 36 trong tập "Thơ Dâng" của Tagore ra thơ song thất lục bát. Thơ ca cũng là cầu nối để chúng ta chia sẻ những giá trị văn hóa và tinh thần của mỗi dân tộc. Qua những bài thơ, chúng ta có thể khám phá những nét đẹp độc đáo trong văn hóa, phong tục tập quán và lịch sử của mỗi quốc gia. Mỗi đời tổng thống Mỹ khi đến Việt Nam điều mượn một câu thơ trong truyện Kiều để bày tỏ sự chân thành đồng thời cũng khái quát được tình hình quan hệ hai nước. Thơ ca giúp chúng ta xích lại gần nhau hơn, tạo nên sự đồng cảm và thấu hiểu giữa các dân tộc. Trong thế giới ngày nay, khi mà những mâu thuẫn và xung đột vẫn còn xảy ra, thơ ca chính là tiếng nói hòa bình, là lời kêu gọi cho sự đoàn kết và yêu thương giữa con người. Hãy đọc thơ, hãy chia sẻ những vần thơ hay với nhau để thế giới của chúng ta trở nên gần gũi, thân thiện và tràn đầy yêu thương hơn.
Trong nhịp sống hối hả của xã hội hiện đại, thơ ca vẫn giữ một vị trí xứng đáng trong tâm trí độc giả. Những vần thơ hay, ý thơ đẹp giúp chúng ta tìm thấy sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn, đồng thời mở rộng tầm nhìn và cách nhìn về cuộc sống. Đối với các em học sinh, thơ ca là nguồn tri thức vô giá, giúp các em trau dồi vốn từ, rèn luyện khả năng cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật. Thơ ca cũng giúp các em hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, truyền thống của dân tộc, từ đó nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc. Hãy đến với thơ ca, mở rộng tâm hồn đón nhận những vần thơ hay, ý thơ đẹp để cuộc sống thêm phong phú và thi vị hơn. Thơ ca sẽ là người bạn đồng hành cùng chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc đời.
Bài làm mẫu 2
Trong cuốn Đa-ghe-xtan của tôi, Raxun Gamzatốp viết: Thơ ca, nếu không có người, tôi đã mồ côi. Gamzatốp muốn nói đến sự mồ côi trên phương diện tinh thần và chính điều này khiến chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của thơ ca đối với cuộc sống con người.
Đã có rất nhiều định nghĩa về thơ nhưng chung quy lại, có thể hiểu thơ là tiếng lòng của mọi con người, thơ khởi phát từ lòng người. Thế giới vẫn đang vận động theo hướng hiện đại hoá nhưng dù loài người có đạt đến trình độ siêu hiện đại hoặc hơn nữa, con người cũng không thể cạn kiệt nguồn xúc cảm trong mình. Đó là lý do tại sao trong các sáng tác của văn học hậu hiện đại, thơ vẫn chiếm vị trí quan trọng.
Chính vì thơ là tiếng lòng, là sự chín đỏ của cảm xúc (Xuân Diệu) nên thơ có ý nghĩa cực kì quan trọng trong cuộc sống này. Nhà thơ làm thơ để giãi bày tình cảm, để thổ lộ nỗi lòng của chính mình. Khi những xúc động mạnh mẽ, những suy nghĩ thầm kín, những tư tưởng sâu sắc và những tình cảm dâng trào, thơ và tâm hồn nghệ sĩ sẽ gặp nhau. Đó là lý do khiến nhiều người chỉ làm thơ cho chính mình, hoặc cho người hiểu mình đọc. Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến dường như không muốn viết thơ nữa bởi Viết đưa ai, ai biết mà đưa? Không gửi được những nỗi niềm, tâm sự trong lòng vào thơ, chắc chắn con người sẽ mất đi những rung cảm tinh tế - như Xuân Quỳnh đã viết trong Nếu ngày mai em không làm thơ nữa:
“Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu
Mùa xuân về quên nỗi nhớ nhau
Không niềm vui khi nắng hè đến sớm”
Thơ trước hết giúp con người giãi bày xúc cảm của mình nhưng nếu xúc cảm đó bị phong kín trên trang giấy thì một điều chắc chắn là sức sống của những vần thơ ấy sẽ không lâu bền. Trong đời sống, con người không chỉ sống và tự chiêm nghiệm về những điều diễn ra trong lòng. Làm thơ không chỉ để tự thoả mãn nhu cầu giãi bày tình cảm của mình mà còn để chia sẻ, là để tìm sự đồng vọng của những tấm lòng đồng cảm. Thơ là điệu hồn của những tâm hồn đồng điệu (Tố Hữu) là bỏi vậy. thế nên kết thúc Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du mới viết:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Khi viết Bên kia sông Đuống, chắc chắn Hoàng cầm không chỉ thổ lộ nỗi niềm xúc động tột cùng khi nghe tin quân giặc giày xéo quê hương mình. Nhà thơ còn muốn tìm sự thấu hiểu, chia sẻ từ tất cả những con người đang chung nỗi đau mất nước. Với Từ ấy, niềm vui sướng khi bắt gặp lí tưởng cộng sản của Tố Hữu như được lây lan tới hết thảy mọi người. Trong thơ ca và bằng thơ ca, nỗi buồn sẽ được san vơi và niềm vui, niềm hạnh phúc chắc chắn sẽ được nhân lên gấp bội.
Với người nghệ sĩ đích thực, làm thơ còn là để người khác cùng thưởng thức cách nói, cách thể hiện, phô diễn tình cảm, tư tưởng của mình bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Xuân Diệu dường như rất hào hứng khi mang đến độc giả những câu thơ mới mẻ, tân kỳ như Tháng giêng ngon như một cặp môi gần hay Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Nếu thơ chỉ là thơ mà không chạm khắc theo một cách riêng (Sóng Hồng) thì tình cảm, xúc động của nghệ sĩ này rất dễ bị lẫn với nghệ sĩ khác và dấu ấn cảm xúc đó sẽ không thể đính ghim vào lòng độc giả.
Nếu thơ ca là nơi người nghệ sĩ' có thể thâu tóm thế giới (hiểu theo nghĩa cả thế giới vật chất và thế giới tinh thần) vào trong đó thì nó cũng là nơi độc giả có thể tìm thấy cả thế giới trong đó. Độc giả có thể thả hồn vào thiên đường trên mặt đất khi đọc Vội vàng của Xuân Diệu, có thể giao chia sẻ với tâm sự về tình yêu của Puskin trong Tôi yêu em. Tâm hồn, trí tuệ con người sẽ giàu có, phong phú hơn khi đến với thơ ca.
Thơ không chỉ khiến tâm hồn, trí tuệ con người giàu có, phong phú mà còn vỗ về, động viên, khích lệ người ta đứng dậy, đi tới... Người đọc có thể cảm nhận muôn vàn cung bậc tình cảm, cảm xúc, muôn vàn tiếng lòng “rất thơ” mà người nghệ sĩ đã phổ trong mỗi con chữ. Tiếp nhận những tình điệu ấy, người đọc như được thanh lọc chính tâm hồn mình. Ta sẽ thấy mình cao thượng hơn, khao khát được sống đẹp, sống có ích hơn... Đó cũng chính là những điều mà Hoàng Trung Thông và tất cả chúng ta cảm nhận được khi đọc thơ của Bác:
“Tôi đọc trăm bài, trăm ý đẹp
Ngọn đèn tỏa rạng mái đầu xanh.
Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông, bát ngát tình”
Thơ ca đến với cuộc sống từ khi nào, khó có thể trả lời đích xác. Nhưng một điều chắc chắn không ai có thể phủ nhận được là không có thơ, cuộc sống sẽ nghèo nàn, tâm hồn, tình cảm con người sẽ trở nên cằn cỗi vô cùng. Thấm thía vai trò, ý nghĩa của thơ ca, nhà thơ cần có ý thức trách nhiệm hơn trong việc sáng tạo thơ ca. Sứ mệnh, của nhà thơ không chỉ là nói lên tiếng nói của bản thân mà còn phải nói lên tiếng nói của muôn triệu trái tim, muôn triệu con người. Nhà thơ phải đau nỗi đau của nhân loại, buồn nỗi buồn của nhân loại. Có như thế, sáng tác của họ mới có sức sống và sức tác động mạnh mẽ. Không ngẫu nhiên khi Đỗ Phủ, Lý Bạch cách chúng ta hàng ngàn năm mà thơ của họ vẫn trường tồn đến tận bây giờ. Không ngẫu nhiên khi Puskin - mặt trời của thi ca Nga lại có sức lay động khắp địa cầu. Với bạn đọc, trân trọng một thi phẩm nghệ thuật, thấy rõ sức mạnh của thơ ca là điều nên làm nhất. Hơn nữa, mỗi người cũng nên làm giàu tâm hồn mình bằng thơ ca và tự nâng cao khả năng cảm nhận của mình hơn khi đánh giá mỗi bài thơ: thơ hay phải thể hiện được cái riêng của mỗi tâm hồn, phải là tiếng đồng vọng của muôn vạn tấm lòng.
Cảm nhận được vai trò, tầm quan trọng của thơ ca đối với cuộc sống con người, chúng ta sẽ hiểu tại sao Raxun Gamzatốp nói: Cuộc sống sẽ tối sầm nếu không có thơ ca.
Bài làm mẫu 3
Thơ ca là sáng tạo đặc biệt của con người. Nó là những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại trang điểm cho cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó. Thơ ca đã có mặt cùng với sự phát triển của nhân loại suốt bao thời kì lịch sử và người ta cũng bắt đầu chú ý đến những vai trò, tác dụng kì diệu của nó đối với cuộc sống, đối với tâm hồn con người. Hiểu được vai trò, tác dụng của thơ ca để con người chúng ta nghiêm túc hơn trong sáng tác, trân trọng hơn trong tiếp nhận, để thơ ca có thể phát huy hết vai trò cao quý của nó: làm cho cuộc sống phong phú hơn, đẹp đẽ hơn, nhân văn hơn.
Bất cứ phong cách ngôn ngữ nào cũng có chức năng riêng của nó. Thơ ca thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ đời sống để đạt được giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ cao nhất. Nó không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
Chức năng thông tin nói cụ thể chính là giá trị tư tưởng, nhận thức và giáo dục của thơ ca. Bằng những ngôn từ đặc sắc có sắp xếp một cách cách khéo léo, thơ ca dễ dàng tác động đến nhận thức, tư tưởng của con người. Chính vì thế nó gửi gắm những giá trị đạo đức nhân sinh một cách khéo léo, tinh tế. Đó không bao giờ là những tri thức khô khan, giáo điều mà là những lời nhắn nhủ chân thành, gần gũi nhất. Những bài học về lối sống, về cách nhìn nhận thế giới, nhận xét con người, cả những kinh nghiệm trong lao động, trong ứng xử đều thể hiện dưới những hình thức ngôn từ tinh tế, uyển chuyển. Chúng ta hãy lắng nghe lời nhắn nhủ của đại thi hào Nguyễn du từ mấy trăm năm trước:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Đó là một chiêm nghiệm của người đã từng trải qua bao cuộc bể dâu, là triết lý rút ra từ thực tế đời sống, cô đúc thành bài học nhân sinh sâu sắc nhưng rất dễ cảm thông, dễ tác động vào nhận thức của con người. Truyện Kiều còn hàm chứa bao nhiêu bài học nhân sinh sâu sắc nhưng nó chưa bao giờ là một cuốn sách luận lý khô khan. Thế mới biết rằng thơ ca góp phần nâng cao tri thức đời sống bằng chính cách riêng của nó mà hiệu quả thì không thua bất cứ hình thức truyền đạt nào.
Bên cạnh chức năng nhận thức, giáo dục, thơ ca còn có chức năng giao tiếp, biểu đạt và truyền cảm. Chức năng này vô cùng quan trọng vì kể cả khi thơ ca muốn gửi gắm một bài học, một tri thức thì nó cũng gửi gắm bằng cái giọng tình cảm, thiết tha. Giá trị biểu cảm là giá trị đặc trưng của thơ ca. Nó bắt đầu bằng những cảm động của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống, truyền tải qua đường dẫn là ngôn từ nghệ thuật và rồi đến và lay động tình cảm của người đọc. Chính vì thế con người chúng ta không chỉ hiểu biết về cuộc đời, lối sống của cha ông mình thuở trước mà còn có những cảm xúc, những tự hào, những căm phẫn theo dòng diễn tả của thi ca. Chức năng này làm cho thơ ca có sức mạnh và sức sống vượt ra ranh giới không thời gian, tác động mãnh liệt vào trái tim con người. Những tác phẩm của Lý Bạch, Đỗ Phủ đâu chỉ tác động đến tình cảm của người Trung Quốc thời đại nhà Đường mà nó còn lay động con tim của độc giả thế giới nhiều thế kỷ sau. Tác động tình cảm của văn chương giúp mối giao tiếp giữa người và người mở rộng đường biên đến vô cùng, vô tận và còn là những mối giao tiếp chân thành nhất, vô vụ lợi nhất, đẹp đẽ nhất.
Cuối cùng và cũng là một vai trò, chức năng quan trọng nhất của thơ ca đó chính là tính thẩm mĩ. Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nên tính thẩm mĩ là đặc trưng của nó. Từ đặc trưng này, thơ ca có tác động mạnh mẽ đến năng lực thẩm mĩ của con người. Nó giúp con người nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp, cái đẹp của ngôn từ và qua ngôn từ sẽ cảm nhận những cái đẹp của thế giới khách quan. Khi ta đọc những câu thơ:
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Trước hết tâm hồn ta rung cảm trước một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, tinh khôi. Rồi chúng ta cảm nhận sự khéo léo tinh tế trong cách dùng từ, cách phối thanh, ngắt nhịp của một bậc thầy ngôn ngữ thi ca. Cái đẹp giúp cho con người rung cảm, thanh lọc tâm hồn và hướng về cái chân, thiện, mỹ. Để làm được điều đó, thơ ca phải chú trọng đến hình thức nghệ thuật của nó. Nó cần sự rung động thật sự của thi nhân, cần tài hoa và cả sự nghiêm túc của người cầm bút. Thơ ca không phải là sản phẩm của những người thợ, nó là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
Thơ ca đã đồng hành cùng cuộc sống con người từ thuở bình minh của những nền văn hóa. Nó mang đến những hiểu biết về nhiều mặt của đời sống, nó tác động và nâng cao những tình cảm nhân văn, nó làm đa dạng thêm khả năng cảm thụ thẩm mĩ của con người. Những tri thức, tình cảm và cái đẹp mà nó mang đến làm cho cuộc sống thêm phong phú, thêm đẹp đẽ và làm cho con người gần gũi nhau hơn. Chính vì thế, dù thế giới không ngừng vận động và đã có nhiều sản phẩm, nhiều giá trị mai một với thời gian nhưng thi ca thì mãi mãi gắn liền với tâm hồn nhân loại.
Bài làm mẫu 4
Trong rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, văn chương là một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi con người. trong mỗi chúng ta, hẳn ai cũng biết văn chương là sự sáng tạo. Đặc biệt đến với thơ ca thì đó là một đòi hỏi không thể không nói tới. Thơ ca là mới mẻ, sáng tạo trên cái nền của hiện thực cuộc sống. Đó là mảnh đất màu mỡ để các nhà thơ gieo mầm tư tưởng, để tác phẩm của họ mãi mãi là của nhân loại.
Nhưng làm được điều đó là không dễ, đã từng có không ít bao thế hệ cầm bút phải nghiêng mình bất lực vì sự sàng lọc nghiệt ngã của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng. Như Nguyễn Bính từng than thở:
“Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy kiếp long đong”
Và cũng bởi từ đó, ta càng thêm thấu hiểu vai trò to lớn của các nhà thơ trong sự nghiệp cầm bút của mình. Nhà văn R. Gamzatốp khi bàn về vai trò của thơ ca, với cuộc sống cũng từng nói rằng:
“Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc tạo dựng thế giới thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này… Thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính nó”. Bằng sự trải nghiệm của mình, nhà văn đã đưa ra một nhận định đầy thuyết phục về vai trò của các nhà thơ với cuộc sống này. Một lần nữa, vị trí của các nhà thơ được nâng lên tầm nhìn mới mẻ, nhiều góc cạnh hơn. Vâng, có lẽ “ Thơ biểu hiện cuộc sống một cách cao đẹp”(Sóng Hồng). Bởi thế mới nói “Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc tạo dựng thế giới thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này”.
Cuộc sống thường ngày vẫn diễn ra với những gì vốn có của nó nhưng phải đến với thơ ca, con người mới có thể khám phá ra những cái đẹp thuần túy mà trước đó chưa ai phát hiện được. Nói như Hoàng Đức Lương: “Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trồng bằng mắt thường, nếm bằng miệng thường, chỉ có thi nhân thì trông mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon”. Và thơ là như vậy, các nhà thơ tạo dựng nên thế giới này bởi những khám phá mới của họ.
Thơ trân trọng phần thuần túy cao siêu,… nhưng không phải là cái cao siêu của một cõi đạo, cõi vô cùng mà chính là cái cao đẹp ở giữa cuộc đời mà con người cần đấu tranh bảo vệ để có được. Thơ ca vì thế mà có sức lay động đến lòng người.
Từ trong ca dao dân ca, thơ đã làm phong phú thêm tâm hồn người dân lao động. HỌ không chỉ có cuộc sống hàng ngày tẻ nhạt mà còn có những ý niệm về tình yêu đôi lứa đầy thi vị:
“Đêm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhặt được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Và đến với thơ ca hiện đại, thế giới càng trở nên tươi đẹp hơn biết bao với những trang thơ tuyệt bút in hình bao thế hệ. Thơ ca hướng con người tới cái : chân- thiện- mỹ. Và quả thật nếu như không có các nhà thơ thì thế giới đầy bí ẩn này có được khám phá một cách sâu sắc đến như vậy không? Chắc hẳn không ai là không biết.
Đọc những vần thơ lên, tâm hồn ta như được rộng mở trước thế giới vừa thực, vừa mộng. Chính thế giới ấy mới thực sự là điều để ta vươn tới, từ đó con người có những định hướng đúng đắn trên bước đường của mình.
Chính Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới đã để lại trong trái tim độc giả những ấn tượng khó phai mờ , bởi những khám phá về cuộc sống nơi trần thế – một bữa tiệc ở trần gian mà ít ai thấy được:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây lá của đồng nội xanh rì
Của yến anh này đây khúc tình si”
Chính những thức say nồng của thiên nhiên vạn vật ban tặng ngay trước mắt nhưng phải đi vào thơ ông , độc giả mới thấy hết cái đẹp của cuộc sống và học được ở nhà thơ quan niệm mới mẻ: phải biết sống vội vàng để hưởng thụ, để cống hiến vì thời gian tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì “chẳng hai lần thắm lại”. Và như thế nhà thơ đã tạo dựng một thế giới mới mà ở đó con người mới có thể thấy hết được giá trị của cuộc sống này. Con người từ đó mà biết sống để cống hiến cho đời.
Mỗi nhà thơ đều đóng góp cho làng thơ ca dân tộc một nốt nhạc và lời ca của riêng mình. ở họ đều có những khám phá riêng và độc đáo, mới mẻ về cuộc sống này. Có thể là sự thoát tục, khép lòng mình dưới cái tục để mở hồn mình với cõi tiên như trong thơ Nguyễn Trãi:
“Một mình nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng quốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”
Thì ra nhà thơ “khép cửa phòng văn” chứ không khép cửa tâm hồn mình mà hòa nhập với thiên nhiên, phát hiện ra vẻ đẹp đầy bình dị mà trong sáng. Hay cũng có thể là một hướng đi khác, tìm về chốn “quê mùa”như trong thơ Nguyễn Bính. Ông khám phá tới những nét đẹp của cuộc sống người dân quê chân chất mà mộc mạc, giản dị:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê”
Quả thật, Nguyễn Bính đã dẫn ta về với vẻ đẹp chốn làng quê mà ít ai lui tới. Và cũng đâu đây, ta thấy được vẻ đẹp của sắc thu khi đọc đến những sáng tác của Nguyễn Khuyến được nhìn ở nhiều chiều, nhiều góc độ và cách cảm:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
(Thu vịnh)
Và:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
(Thu điếu)
Tất cả, mỗi đóng góp của các thi nhân đã tạo dựng nên một thế giới đầy huyền bí trở nên tươi đẹp như thế này. Đến với thơ ca, thế giới này càng thêm sức sống và những bất ngời, vẻ đẹp tuyệt diệu mà phải nhờ đến chiếc cầu nối ấy, nó mới thực sự hé mở và lộ diện, phô diễm.
Bởi thế, tiếp tục nguồn mạch ấy, R. Gamzatốp khẳng định: “Thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính nó”. Thật vậy, các nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Văn học trong đó có thơ ca là tấm gương phản chiếu đời sống tâm hồn con người.
Chạy theo thế giới mộng tưởng, thoát li, chơi vơi, thơ ca không thực hiện được chức năng chân chính của mình là phản ánh cuộc sống. vì vậy, nhà thơ tìm nguồn sáng tạo cho thơ trong những chủ đề được xem là vĩnh cửu như sự sống, cái chế, tình yêu, …Nhưng không miêu tả quá cụ thể của đời sống bình thường. theo họ thơ không chấp nhận việc miêu tả sự sống hằng ngày, cái hàng ngày vụn vặt, bình thường sẽ làm cho thơ mất chất thơ, không bay cao bay xa được. Như vậy hiện thực đi vào thơ ca dưới cái nhìn chủ quan của người viết. Nhà thơ phản ánh hiện thực và luôn mở ra một lối thoát nếu đó là sự thực phũ phàng.
Có thể nói, vai trò của thơ ca là làm sáng tỏ sự thật, phơi bày sự thật, bởi thế thiếu thơ ca, không gì có thể trở thành chính nó. Chẳng thế mà chúng ta – những con người của thế kỷ XXI có thể thấu hiểu được nỗi niềm tâm tư, tình cảm cuộc đời của bao thế hệ, lớp người đi trước cách đây mấy ngàn năm hay sao? Số phận bi kịch của người phụ nữ – nỗi buồn của một kiếp người trong Truyện Kiều của đại thi hào NGuyễn Du chẳng phải cho đến nay vẫn không khỏi làm rung động bao trái tim độc giả.
Đọc truyện Kiều, ta biết thêm về xã hội ngày ấy, sự bế tắc của thời loạn lạc khiến số phận con người long đong, chìm nổi. Đặc biệt là người phụ nữ, để rồi họ cất lên tiếng than:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Và như thế, từ trong thơ dân gian, trung đại đến những áng thơ hiện đại, thơ ca vẫn không tách rời hiện thực cuộc sống. Mọi thứ vẫn là “chính nó”. Cái khốc liệt của chiến tranh vẫn đi vào thơ ca, cuộc sống khó khăn, gian khổ nơi chiến trường lửa đạn của các chiến sĩ được khắc họa trên từng trang giấy.
Có đến với thơ ca, ta mới thấu hiểu đời lính với muôn vàn gian nan, cực nhọc như thế nào. Họ phải trải qua bao thử thách, hiểm nguy:
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn với bùn non, gan không lún, chí không mòn
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Cái chết luôn rình rập, kề cận với họ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
(Đồng chí - Chính Hữu)
Nơi núi rừng sương muối, hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến không thể không làm rung lên những tình cảm trong tâm hồn nhà thơ để họ hướng ngòi bút của mình về chủ đề ấy. Để từ đó, ta có thêm những hiểu biết về sự thật cuộc đời và có định hướng cho tương lai.
Bóc trần sự thực cuộc sống nhưng không vì thế mà thơ ca mất đi chất thi vị và lãng mạn.Nhà văn R. Gamzatốp đã rất đúng đắn khi đưa ra lời nhận định đầy thuyết phục về vai trò của thơ ca đối với cuộc sống. Thơ ca ca ngợi cái đẹp, khám phá, phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn tồn tại ngay trong thế giới xung quanh ta, nhưng các nhà thơ không tô hồng cuộc sống mà họ bám rễ, đi sát vào hiện thực để phản ánh. Câu nói của nhà văn tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng lại vô cùng hài hòa, thống nhất với nhau. Gieo vào tâm trí người đọc những suy nghĩ sâu sắc để thơ ca thực sự là chính nó, là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp và giúp ta nhận ra chính mình, chính xã hội mà ta đang sống.
Bài làm mẫu 5
Có lẽ rằng trong các thể loại văn học, không thể loại nào mà người ta có thể bộc lộ những cảm xúc được tài tình, hàm súc và tập trung như ở trong thơ, và làm thơ từ muôn đời nay vẫn khó, không chỉ làm sao cho có vần có điệu, dễ nhớ dễ thuộc, mà còn phải khiến cho cái tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ nằm gọn trong những vẫn thơ của mình, từng chữ trong thơ đều ôm trong mình một thứ tình cảm nhất quán. Văn xuôi người ta dùng cả vạn chữ để diễn đạt một chủ đề, thì đối với thơ chỉ vỏn vẹn vài chục, nhiều thì vài trăm, tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ đã nằm trong ấy. Có thể nói rằng tình cảm là đặc thù của văn chương nói riêng, và là của thơ ca nói riêng. Và chắc một điều rằng, xưa nay người ta làm thơ thì khi nào cũng xuất phát từ tình cảm làm gốc, chứ không vì cái gì khác, đó gọi là cảm hứng sáng tác. Chính vậy tình cảm có một vai trò vô cùng quan trọng trong thơ.
Nói đến vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ ca, trước hết phải nói đến việc tình cảm trong lòng người chính là khởi nguồn của những vần thơ hay và phong phú mà như Lê Quý Đôn đã nhận định rằng “Thơ khởi phát từ lòng người ta” hoặc rõ hơn khi Vũ Duy Thanh viết: “Thơ xuất phát từ tình”. Trong tiếng Hán, thơ có nghĩa là “thi”, theo như nhà văn học nổi tiếng Dương Thụ Đạt thì thi ở đây tức là là “cái gốc và là cái mầm mọc từ trái tim”. Tức là muôn đời thơ ca đều xuất phát từ những biến chuyển trong nội tâm tình cảm con người, nếu chỉ có diễn tả một sự việc đơn thuần mà không có tình cảm thì cho dù có vần có điệu đi chăng nữa người ta cũng chẳng thể xem đó là thơ được mà là một thể loại nào đó khác như phú, ca, vịnh, biện, luận, ký,… chỉ cốt xem trọng việc diễn tả lại những cái gì người ta thấy một cách rườm rà, và thêm chút vần nhạc. Nhưng lại biệp lập hẳn với thơ vì nó bị khuyết thiếu cảm xúc và tình cảm của người viết, đã gọi là thơ mà lại không có tình cảm làm gốc, không truyền đạt được tưởng, tiếng lòng của tác giả, ít thì gây sự xúc động, nhiều thì gây chấn động, thì hẳn đó không thể được gọi là thơ nữa. Bên cạnh việc gốc của thơ là tình cảm, nó sinh sôi và nảy nở ra những câu chữ cô đọng, súc tích và truyền cảm bằng nhiều hình thức. Thì trong thơ ca người ta cũng còn có những yêu cầu nhất định cho tình cảm trong thơ, trong thơ không có chỗ cho thứ tình cảm giả tạo, kém tự nhiên, giới thơ không có chỗ cho những kẻ cố múa bút, rặn ra những chữ khô cứng, hoa mỹ và thừa thãi, nhưng không mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực, đánh động vào tâm lý của con người. Mà thơ ca cần một cái khởi nguồn xuất phát từ tình cảm tự nhiên của con người ví như nỗi đau khổ, trăn trở với tình yêu, nỗi thương cảm trước những cuộc đời bất hạnh, hay một cảm xúc vui sướng, hạnh phúc nào đó xuất phát từ chính trong lòng người nghệ sĩ, trở thành cảm hứng xuyên suốt tác phẩm. Và một người nghệ sĩ tài năng ắt hẳn sẽ có cách ém nó vào từng chữ trong thơ, lúc ẩn lúc hiện, khiến người đọc buộc phải băn khoăn, tìm tòi và khai quật những tình cảm chan chứa tự nhiên ấy. Vậy nên Ngô Thì Nhậm mới không ngại ngùng khi nhận xét về văn chương rằng “loại có khả năng gây hứng thú và cảm xúc cho người ta thì không gì bằng thơ”. Rõ ràng rằng, con người chúng ta có thiên tính tò mò, cái gì càng được ấp ủ, giấu kín, là tình cảm bí mật mà kẻ khác giấu trong thơ lại càng khiến người ta mong mỏi tìm tòi, thưởng thức. Còn nếu như thơ không mang tình cảm, thì cũng chỉ là thể loại tự sự, thuyết minh, ý trên mặt chữ, không nên xếp nó vào thơ.
Thứ hai nữa, tình cảm trong thơ ca chính là những nét phác họa sắc nét nhất về một người nghệ sĩ. Không chỉ bộc lộ tư tưởng, tình cảm, lối sống, mà còn bộc lộ được những tính cách, những góc khuất sâu trong tâm hồn của họ. Tôi lấy ví dụ như đọc thơ Hàn Mặc Tử với những tập Gái quê, thơ Điên,… với những tình cảm hỗn độn vừa trong sáng vừa kỳ dị, người ta đã cảm nhận rõ hơn về cuộc đời của một người nghệ sĩ bất hạnh, khao khát tình yêu, cuộc sống, nhưng lại phải nhận những cô đơn tách biệt với cuộc đời. Hoặc với thơ Hồ Chí Minh như tập Nhật ký trong tù, Vọng Nguyệt, Tức cảnh Pác Pó,… tình cảm với thiên nhiên, với con người, sự lạc quan, ung dung,… thể hiện được sự vĩ đại của một tâm hồn tuyệt đẹp, tấm lòng gắn bó với nhân dân, với Tổ quốc, với cách mạng của Hồ Chủ tịch một cách khéo léo và tinh tế hơn cả, nó lại ở một cái tầm khác hẳn với những bài báo, bài viết tự sự thông thường. Hay với Tố Hữu đi từ Từ ấy đến Việt Bắc, những tình cảm sung sướng khi được đứng dưới lá cờ của Đảng, đến những cảm xúc ngậm ngùi nhân buổi phân ly, đã vẽ nên một hồn thơ lý tưởng, một tấm lòng yêu quê hương đất nước, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, sống và chiến đấu vì nhân dân sâu sắc mà không phải ai cũng có được.
Vai trò quan trọng thứ ba của tình cảm trong thơ ấy chính là thu hút, đánh động những cảm xúc chưa từng có hoặc đang còn ngủ quên, mơ màng trong lòng mỗi độc giả, khiến độc giả không chỉ hiểu được tấm lòng của người thi sĩ trong những hoàn cảnh nhất định mà còn phải thu về được cho mình những tình cảm mới, mở ra những chân trời mới trong tâm hồn, hoặc làm sâu đậm thêm những tình cảm sẵn có. Lấy ví dụ về bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hạn:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”
Trước hết phải khen rằng đây là một bài thơ hay, cô đọng nhiều giá trị nội dung và nghệ thuật, trong đó cái gốc rễ tình cảm của nhân vật trữ tình, của người chiến sĩ cách mạng đã thu hút được độc giả. Những tình cảm lạc quan, yêu đời, chan hòa với thiên nhiên cuộc sống khiến người ta hiểu hơn về tấm lòng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày khốn khổ, càng thêm cảm phục tấm lòng vì dân vì nước của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đồng thời tác phẩm cũng lại mở ra cho người đọc một nhận thức mới về cuộc đời của người chiến sĩ những năm đầu kháng chiến gian lao, vất vả, nhưng tràn ngập niềm tin và hy vọng vào cuộc sống. Như vậy đọc thơ xong nếu là một người giỏi thường thức và am hiểu họ không chỉ dừng lại ở việc chỉ cảm nhận được tâm hồn của thi sĩ thông qua những tình cảm trong thơ mà còn rút ra cho mình những bài học sâu sắc, ví như trong Chiều tối chính là tinh thần lạc quan, yêu đời không khuất phục trước khó khăn, lòng tin vào cách mạng, yêu nước thương dân,…
Tương tự đến với một đoạn trong Việt Bắc của Tố Hữu:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Xuất phát từ những tình cảm thắm thiết ân tình thủy chung dành cho đồng bào dân tộc miền núi, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh tứ bình đa sắc và sinh động, đặc biệt thu hút người đọc, không chỉ ở nhịp điệu, bắt vần, mà còn nằm ở cả những vẻ đẹp ẩn chứa trong từng vần thơ. Gợi mở ra trong lòng người đọc những tình cảm quý mến, thân thiết với núi rừng Việt Bắc và con người nơi đây, cung cấp cho họ những hình dung mới lạ về vùng đất được mệnh danh là cái nôi của kháng chiến. Ta cũng nhận rõ được một sự chuyển dịch tình cảm trong đoạn trích, nghĩa là tình cảm trong thơ của Tố Hữu không chỉ riêng mình ông mà nó còn có sức lan truyền mạnh mẽ sang độc giả, khiến họ cũng có những cảm nhận tương tự về một thời xa xăm oanh liệt của đất nước. Khiến họ yêu thương hơn vùng trời phía Bắc của Tổ quốc, yêu thêm những con người đã sánh bước cùng cách mạng trong những năm tháng kháng chiến gian lao. Quả thực rằng tình cảm trong thơ đã dẫn người ta từ chỗ không có tình cảm gì đặc biệt đến thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc. Một tác phẩm thơ mà có khả năng truyền tải được những tình cảm nó mang thì không chỉ dựa vào cách viết của tác giả mà còn dựa vào cái gốc rễ tình cảm ấy nó chứa đựng bao nhiêu phần ý nghĩa, có đủ sức nặng hay không.
Lại nói đến việc tình cảm có sức mạnh rung động tâm can con người, có sức lan truyền và đánh thức con người mạnh mẽ thì chắc phải kể đến những chủ đề viết về tình thân, tình yêu, đặc biệt là tình cảm với quê hương đất nước. Phải nói rằng những thứ tình cảm truyền thống và đáng quý ấy đã khiến những tình cảm sẵn có trong tâm khảm mỗi con người được đắp đầy hơn, sôi động và mạnh mẽ hơn. Ví như đọc Đò Lèn, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, cái tình cảm thắm thiết, nhớ thương, hối tiếc trong hồi tưởng của Nguyễn Duy về người bà, người mẹ bỗng khiến người đọc phải xúc động, phải giật mình thấm thía những hy sinh của bà, của mẹ, và chúng ta càng nhận thức được sâu sắc rằng phải yêu thương người mẹ, người bà của mình nhiều hơn nữa. Hoặc đọc cả Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi, độc giả đặc biệt là giới trẻ ngày nay vốn có nhiều những bỡ ngỡ về lòng yêu nước, cũng như định nghĩa về đất nước, bỗng thấy hiểu thêm, yêu thêm, tự hào hơn về một đất nước bốn nghìn năm anh hùng, trải qua nhiều đau thương máu lửa, một đất nước đi từ ca dao, cổ tích, một đất nước đi từ lời ru,… Thử hỏi rằng nếu như tác giả không truyền những tình cảm yêu nước sâu sắc, những trải nghiệm thực tế của mình vào từng vần thơ, liệu rằng độc giả có thể có những tình cảm mới mẻ và sự thức tỉnh mạnh mẽ như thế không? Hoặc ví như viết về tình yêu, bài thơ Tôi yêu em của Puskin là một kiệt tác kinh điển, sự đau đớn, tiếc nuối và sự cao thượng mà tác giả cất giấu trong những vần thơ đã thực sự chạm đến trái tim của độc giả khắp nơi trên thế giới. Người chưa yêu hiểu thêm về tình yêu, người đã yêu thì càng thấm thía, người đang tan vỡ thì nhận được sự đồng cảm và an ủi. Cuối cùng người ta cũng lại từ những biến chuyển của nhân vật trữ tình rút ra cho mình được những bài học về tình yêu, bài học về sự tôn trọng đối phương cùng với sự cao thượng trong tình cảm.
Phải nói rằng thơ ca muôn đời vẫn luôn là một món ăn tinh thần, một trong những sáng tạo cao quý và đỉnh cao của văn chương. Trong đó tình cảm vừa là gốc rễ của thơ ca, là yếu tố chính yếu làm nên giá trị của một tác phẩm, đồng thời phác họa chân dung tâm hồn của người nghệ sĩ. Không chỉ vậy tình cảm trong thơ còn gợi mở, thức tỉnh những cảm xúc nội tâm của con người khiến cho lòng người thêm phong phú và tốt đẹp hơn.