Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sang Thu Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

Bài thơ Sang thu được sáng tác cuối năm 1977 khi đất nước mới thống nhất hòa bình. Qua đó, giúp các em thấy được bức tranh giao mùa tuyệt đẹp, cùng sự biến đổi tinh vi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.

Sang thu

Hoàn cảnh sáng tác Sang thu rất quan trọng bởi vì trong bất cứ đề văn liên quan đến phân tíchcảm nhận nào thì trong bài văn chúng ta phải nêu được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Vậy mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây của Eballsviet.com để hiểu rõ hơn:

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sang Thu - Mẫu 1

Bài thơ ra đời gần cuối năm 1977 khi đất nước mới thống nhất hòa bình, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sang Thu - Mẫu 2

Bài thơ Sang thu được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991).

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sang Thu - Mẫu 3

Bài thơ được viết cuối năm 1977.  In trong tập "Từ chiến hào đến thành phố" xuất bản 1991. Bài thơ được viết vào thời điểm chuyển từ hạ sang thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với những thay đổi rõ rệt về không gian, thời gian. (Ở Nam Bộ chỉ có 2 mùa mưa, nắng không có thời điểm chuyển giao mùa này).

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sang Thu - Mẫu 4

Gần cuối năm 1977, in lần đầu trên báo Văn nghệ. Sau đó được in nhiều lần trong các tập thơ. Trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”, xuất bản năm 1991.

Bố cục bài thơ Sang thu

Bài thơ Sang thu gồm 3 phần:

  • Phần 1. Khổ thơ đầu: Thiên nhiên lúc giao mùa với những tín hiệu của mùa thu.
  • Phần 2. Khổ thơ tiếp: Thiên nhiên lúc vào thu.
  • Phần 3. Khổ còn lại: Suy nghĩ về cuộc đời lúc chớm thu.

Giới thiệu tác giả Hữu Thỉnh

a, Cuộc đời

Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942. Sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học nhưng ông đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.

Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, Ông mới được đến trường. Năm 1963 ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động như chăn bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua hầu khắp các chiến trường máu lửa như Đường 9

Sau 1975, Hữu Thỉnh học Sơ cấp Thú y và là một trong số những học sinh khóa đầu tiên của trường.

Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng ban Chăn nuôi, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Thú y.

Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3.

Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần) [1], đồng thời kiêm nhiệm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ kí Hội Nhà văn Việt Nam.

b, Thành tựu văn học

Hữu Thỉnh có những thi tuyển và những bản trường ca sau:

  • Âm vang chiến hào (in chung);
  • Đường tới thành phố (trường ca);
  • Từ chiến hào tới thành phố (trường ca, thơ ngắn);
  • Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung);
  • Thư mùa đông.
  • Trường ca biển.
  • Thương lượng với thời gian.
Chia sẻ bởi: 👨 Lê Thị tuyết Mai
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm