Tổng hợp dàn ý truyện ngắn Chữ người tử tù (7 mẫu) Dàn ý Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Dàn ý Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân tổng hợp 7 mẫu khác nhau cực hay đầy đủ nhất. Lập dàn ý Chữ người tử tù xoay quanh với nhiều chủ đề khác nhau như: dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao, dàn ý phân tích nhân vật Viên Quản Ngục, dàn ý phân tích cảnh cho chữ.
Với 7 dàn ý Chữ người tử tù giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều tư liệu tham khảo nắm được các luận điểm luận cứ quan trọng để biết cách phân bổ thời gian viết bài nghị luận văn học. Vậy sau đây là TOP 7 dàn ý Chữ người tử tù chi tiết nhất mời các bạn theo dõi.
Tổng hợp dàn ý truyện ngắn Chữ người tử tù
- Dàn ý phân tích tình huống truyện Chữ người tử tù
- Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao
- Dàn ý phân tích nhân vật Viên quản ngục
- Dàn ý phân tích cảnh cho chữ
- Dàn ý phân tích truyện Chữ người tử tù
- Dàn ý thái độ của Huấn Cao đối với Viên quản ngục
Dàn ý phân tích tình huống truyện Chữ người tử tù
1. Mở bài
- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cho mình cái đẹp, đặc biệt là những vẻ đẹp trong nhân cách con người.
- Truyện ngắn Chữ người tử tù là tác phẩm tiêu biểu thể hiện được hết phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với tình huống truyện vô cùng độc đáo.
2. Thân bài
* Tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Tuân (1910-1987), quê ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách uyên bác, tài hoa và độc đáo, có sở trường về tùy bút và truyện ngắn.
- Chữ người tử tù là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất giai đoạn trước cách mạng, được in trong tập Vang bóng một thời.
* Tình huống truyện:
- Bối cảnh:
- Không gian: Trong tù, chật hẹp, hôi thối, ẩm ướt.
- Thời gian: Là những ngày trước khi Huấn Cao bị tử hình
- Vị thế của Huấn Cao và quản ngục trong bình diện xã hội:
- Huấn Cao là tử tù, là kẻ phản loạn muốn lật đổ trật tự xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
- Viên quản ngục là người quản lý tù nhân, đại diện cho tầng lớp bảo vệ trật tự xã hội.
=> Vị thế đối địch. Tuy nhiên xét kỹ thì đây còn là cuộc giáp mặt giữa hai loại tù nhân, viên quản ngục chính là tù nhân trong môi trường làm việc của mình.
- Vị thế trên bình diện nghệ thuật:
- Huấn Cao: Là người có tài viết chữ đẹp.
- Viên quản ngục: Yêu thích nghệ thuật thư pháp, kính trọng và ngưỡng mộ tài viết chữ của Huấn Cao.
=> Tri âm tri kỷ
- Vị thế trên bình diện nhân cách;
- Huấn Cao: Là người khí phách, tài hoa.
- Viên quản ngục: Tôn thờ kính trọng tài hoa và khí phách của Huấn Cao, khí phách, thiên lương.
3. Kết bài
- Tình huống truyện trong tác phẩm Chữ người tử tù chính là chất xúc tác, thúc đẩy cốt truyện phát triển, rồi từ đó đưa đến hướng giải quyết cốt truyện, đồng thời bộc lộ vẻ đẹp, tính cách của các nhân vật, bật sáng chủ đề của câu chuyện, đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao
Dàn ý số 1
I. Mở bài
– “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng. Qua tập truyện, Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội buổi giao thời cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX ở nước ta và ca ngợi những nhà nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ thiên lương cao đẹp.
– Một trong những nhân vật tiêu biểu là Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
II. Thân bài
1. Con người mang nét đẹp của tư thế, khí phách
Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện gợi được không khí cổ kính của một thời đã qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công những nét tính cách nhân vật.
a. Một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất.
– Tự trọng, không ham quyền và hám lợi: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
– Hiên ngang bất khuất: “… những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người tu, người ta cũng còn chẳng biết ai nữa…”
b. Chí lớn không thành, coi thường gian khổ, kể cả cái chết
– Chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: “Đến cái cảnh chết chém, ông cũng chẳng sợ nữa …”
– Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm.
c. Khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị.
– Dưới mắt ông, chúng chỉ là là tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một dõng cặn bã.
– Thái độ và ngôn ngữ nhân vật cực kì khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì nữa không, ông đã trả lời rất thản nhiên: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
2. Con người mang nét đẹp của tâm hồn, tài hoa
a. Tâm hồn cao quý
Huấn Cao ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật Huấn Cao vậy.
b. Yêu cái đẹp và cảm thông với người yêu quý cái đẹp.
Huấn Cao kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động: “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
c. Rất mực tài hoa
– Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú tao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kỳ, thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.
– Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỷ: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Và lần này như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người”.
– Con người ấy đã thực hiện lời hứa với viên quản ngục, thể hiện cái tài hoa tuyệt thế của mình trong một khung cảnh đầy xúc động. Bằng hiện pháp đối lập, Nguyễn Tuân đã làm toát lên chủ đề của truyện trong đoạn cuối truyện.
– Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa tràng, mực thắm, nét chữ vuông tươi tắn) đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà ngục tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián).
– Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ… chắp tay vái người tù một vái.
=> Tất cả thể hiện ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết (nhà ngục), bởi một con người sắp chết (tử tội Huấn Cao). Còn lời Huấn Cao khuyên viên quản ngục lại mang ý nghĩa bổ sung: cái đẹp không thể cũng sống chung với tội ác.
3. Đánh giá về hình tượng Huấn Cao
- Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp của khí phách, của tài hoa hòa hợp cái đẹp của thiên lương.
- Nhân vật Huấn Cao, cũng như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối với thời cuộc và cái đẹp của thiên lương. Đó cũng là nét độc đáo của hình tượng nhân vật Huấn Cao, so với các nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
III. Kết bài
- Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” mang tính cổ kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đối xử… toát lên không khí của một thời mà nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính hiện đại với nhưng đoạn phân tích ý nghĩa sâu kín, diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế.
- Nhân vật Huấn Cao, con người có trách nhiệm đối với đất nước, hiện lên trong truyện với một thái độ tôn sùng của Nguyễn Tuân. Đây cũng là sự giãi bày kín đáo niềm “… khát khao theo đuổi một lý tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi mới bước chân vào đời”. (Trường Chinh).
Dàn ý số 2
I. Mở bài
- Nguyễn Tuân được tôn vinh là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Với sự am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, điện ảnh…, Nguyễn Tuân nổi tiếng với phong cách tài hoa, uyên bác. Ông đặc biệt thành công ở thể loại truyện ngắn và tùy bút. Nguyễn Tuân thường đi sâu, khám phá thiên nhiên, sự vật ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- “Chữ người tử tù” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân được rút từ tập “Vang bóng một thời” (xuất bản năm 1940). Ban đầu tác phẩm có tên là “Dòng chữ cuối cùng” in năm 1930 trên tạp chí Tao đàn.
- Nhân vật trung tâm của truyện là Huấn Cao – một hình tượng hội tụ nhiều vẻ đẹp: tài hoa nghệ sĩ , thiên lương trong sáng và khí phách anh hùng, bất khuất.
II. Thân bài
1. Khái quát chung:
a. Bổ sung thông tin:
b. Cảm nhận chung về nhân vật Huấn Cao:
- Nhân vật Huấn Cao trong truyện được xây dựng từ nguyên mẫu có thật ngoài đời là Cao Bá Quát – một người giỏi văn chương và võ nghệ, viết chữ đẹp, có tâm hồn cao đẹp, không chịu khuất phục trước uy quyền và bạo lực. Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương và bị triều đình nhà Nguyễn sát hại.
- Nhân vật được đặt trong tình huống bất ngờ và éo le: Giữa chốn lao tù, tử tù Huấn Cao và viên quản ngục- hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp có sự gặp gỡ, tri âm, tri kỉ.
Tình huống truyện bộc lộ và làm tỏa sáng vẻ đẹp của cái tài, cái dũng, cái thiên lương của Huấn Cao.
2. Phân tích nhân vật:
a. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa:
- Nguyễn Tuân không trực tiếp giới thiệu tài năng của Huấn Cao mà thông qua cuộc đối thoại của viên quản ngục và thấy thơ lại, người đọc có thể biết được một số thông tin về Huấn Cao: “cái người mà vùng tỉnh Sơn Tây vẫn khen có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”.
- Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán – thứ chữ tượng hình của Trung Quốc. Nghệ thuật viết chữ đẹp được gọi là thư pháp. Loại hình nghệ thuật này có nguồn gốc từ Trung Quốc với bốn loại chữ: chân, thảo, lệ, triện. Thư pháp là loại hình nghệ thuật thanh cao của người có học. Các nhà nho xưa thường viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí của mình. Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa và hiểu được giá trị cao quý của cái đẹp. Ông đã gửi gắm hoài bão lớn lao của mình qua những dòng chữ nghệ thuật: “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người”... “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”, “Có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu trên đời”. Huấn Cao không chỉ nổi tiếng trong giới sành thư pháp, trong bạn bè tri âm tri kỉ mà ngay đối với những kẻ đối nghịch cũng hết lòng ngưỡng mộ tài năng của ông.
-Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, nhẫn nhục mà phải liều mạng. Bởi vì, biệt đãi Huấn Cao – một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.
b. Vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, bất khuất:
- Dù chí lớn không thành, tư thế của Huấn Cao bao giờ cũng hiên ngang bất khuất. Ông là người làm chủ trong mọi hoàn cảnh. Khi bị dẫn vào ngục tù, ông không hề run sợ trước những kẻ đang nắm giữ vận mệnh của mình: “Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”, bất chấp lời dọa nạt của một tên lính canh tù.
- Huấn Cao là người không dễ dàng bị mua chuộc bởi vật chất tầm thường. Ông “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt” nhưng lại quát viên quản ngục “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
- Huấn Cao có quan niệm sống chết rõ ràng. Trước cái chết ông không bao giờ run sợ. Cái chết đối với ông nhẹ tựa lông hồng. Trước lúc ra pháp trường, Huấn Cao vẫn có phong thái ung dung, đường hoàng. Khi nghe tin sáng hôm sau Huấn Cao và năm đồng chí của ông phải về kinh chịu án tử hình, viên quản ngục tái nhợt người đi, thầy thơ lại “hớt hơ, hớt hải” rồi “ngập ngừng” khi báo tin, còn Huấn Cao: “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. Đó là nụ cười thú vị vì đã khám phá ẩn số về viên quản ngục. Đó cũng là nụ cười khi đã tìm thấy tri âm tri kỉ nơi tội ác lộng hành: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ”.
c. Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng, cao đẹp:
- “Thiên lương” được hiểu là tính tốt vốn có của con người. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, thiên lương được sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với viên quản ngục, thiên lương là tấm lòng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái tài. Đối với Huấn Cao, thiên lương chính là sự ý thức về tài năng của mình.
- Huấn Cao là một nghệ sĩ chân chính. Ông rất trân trọng cái đẹp của nghệ thuật đồng thời trân trọng tài năng của mình. Ông là người nghệ sĩ luôn đặt chữ tâm trên chữ tài, không bán rẻ nghệ thuật vì tiền bạc, uy quyền: “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng chỉ mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Ông biết trân trọng và quý mến những người có tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp, biết thưởng thức cái đẹp.
- Huấn Cao là người biết cảm thông, trân trọng với những người biết yêu quý cái đẹp. Qua ngôn ngữ độc thoại, Huấn Cao đã bộ lộ những suy nghĩ sâu sắc khi suy sét người khác. Có lúc, Huấn Cao băn khoăn trước cách đối xử tươm tất của viên quản ngục. Khi hiểu được tâm nguyện cao quý của viên quản ngục, Huấn Cao tỏ ra hối hận: “Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đó là cách hành xử đầy tôn trọng của một tấm lòng trước một tấm lòng, của một thiên lương trước một thiên lương, một nghệ sĩ trước một người tri âm, tri kỉ. Ông xem những dòng chữ của mình như một thứ quà tặng để đáp lại những tấm lòng. Vì vậy, Huấn Cao đã đồng ý cho chữ quản ngục ngay trước giờ ra pháp trường lãnh án tử hình. Không chỉ thế, thiên lương của Huấn Cao còn có khả năng làm bừng sáng vẻ đẹp của người khác. Ông đã biến nhà tù – nơi tội ác nảy sinh, hoành hành trở thành không gian nơi gặp gỡ của tri âm, tri kỉ và đặc biệt dùng để cảm hóa con người. Quan niệm về cái đẹp được Nguyễn Tuân thể hiện sinh động trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm.
d. Sự thống nhất cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng:
- Trong cảnh tượng cho chữ ở cuối tác phẩm, Nguyễn Tuân đã để cho cái đẹp của cái tâm, của thiên lương chiếu rọi tạo nên sự thống nhất giữa tài năng, thiên lương và khí phách anh hùng cùng tỏa sáng trong một nhân vật. Đó cũng là chuẩn mực của cái đẹp, chuẩn mực đánh giá con người trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
- Đây là đoạn văn tuyệt bút vì đoạt tới sự toàn mĩ bởi có sự phối kết hợp của nhiều yếu tố nghệ thuật: hội họa, điện ảnh, nghệ thuật tương phản đặt trong các yếu tố thời gian, không gian và bút pháp lãng mạn, tả thực.
* Sự đối lập giữa không gian, thời gian, bóng tối và ánh sáng:
+ Không gian: Người nghệ sĩ xưa thường sáng tạo cái đẹp trong thư phòng thoáng đãng với đầy đủ ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh sáng mát mẻ của vầng trăng, mùi hương quyến rũ của hoa, hương vị đậm đà của trà, men say của rượu. Tất cả những điều ấy nói lên rằng, thời trước các nho sĩ hầu hết đều phải có điều kiện về kinh tế, được học hành bài bản. Huấn Cao sáng tạo cái đẹp trong hoàn cảnh đặc biệt. Đó là một gian phòng chật chội, hôi hám, ẩm thấp: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
+ Thời gian: Việc cho chữ vốn là việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra vào lúc đêm khuya, tĩnh lặng, khi vạn vật đã chìm sâu vào giấc ngủ. Lúc ấy, trên vọng canh chỉ còn vang lên tiếng mõ. Nhưng điều đặc biệt hơn là ở chỗ: đây là những giờ khắc ngắn ngủi còn lại của người tù trước lúc lên máy chém.
* Sự đối lập giữa cái đẹp, cái thanh cao với cái phàm tục, nhơ nhớp
- Sự tương phản giữa buồng giam ẩm ướt, hôi hám với tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván và chậu mực tàu thơm tho. Thư pháp vốn là nghệ thuật thanh cao, tinh tế đòi hỏi người nghệ sĩ phải có đầy đủ những phương tiện như bút mực, giấy lụa và đặc biệt là đầy đủ ánh sáng. Với Huấn Cao dòng chữ thư pháp trao tặng cho viên quản ngục là sự bàn giao cái đẹp cho hậu thế. Huấn Cao không được phép lựa chọn không gian, thời gian và ánh sáng vì vậy: “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
* Cảnh cho chữ được đặt trong sự đối lập giữa cái thiện và cái ác:
- Người cho chữ và người nhận chữ có cuộc đổi ngôi hết sức kì diệu, trật tự, kỉ cương của nhà tù bị đảo ngược. Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp lại ở trong tình cảnh: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” Thể xác của người nghệ sĩ đang bị gông xiềng nhưng tinh thần thì đang ở giờ phút thăng hoa, tự do cao nhất. Trong ngục tối, khi sáng tạo cái đẹp, người nghệ sĩ ở vào thế chủ động, tập trung cao nhất cho nghệ thuật.
- Người xin chữ là ngục quan, có tâm hồn say mê cái đẹp, biết trọng người tài nhưng lại là người tiếp tay cho cái ác, cái phi nghĩa. Trong cảnh tượng cho chữ, viên quản ngục tỏ ra “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Khi bức tranh đã hoàn thành, Huấn Cao đưa ra những lời khuyên chí tình với viên quản ngục “thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ”. Lời khuyên chí tình của Huấn Cao đã có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường, lạc lối trở về với cuộc sống thanh bần, thanh cao. Hành động chắp tay vái lạy và những giọt nước mắt của viên quản ngục không phải là biểu hiện của run sợ mà là sự tôn sùng, ngưỡng mộ một nhân cách cao đẹp và chứng minh một chân lí: cái đẹp có thể cảm hóa con người: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Những giờ phút cuối cùng của người tử tù vẫn ánh lên phẩm chất cao quý của một nghệ sĩ có lương tri – một nghệ sĩ tâm huyết với nghề và có thiên lương cao đẹp. Nghệ thuật phải gắn với cái tâm thanh cao của người nghệ sĩ.
- Qua cảnh cho chữ, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ, Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm về cái đẹp: cái đẹp có thể nảy sinh từ nơi này sinh cái ác nhưng không thể song hành cùng cái ác.
Cảnh cho chữ chính là sự chiến thắng của lương tri con người trước bóng tối của cường quyền, tội ác, sự chiến thắng giữa tinh thần bất khuất và nô lệ, sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng và cái phàm tục, nhơ bẩn. Huấn Cao trở thành biểu tượng cho cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả.
3. Nhận xét, đánh giá về ý nghĩa tư tưởng của nhân vật Huấn Cao :
- Huấn Cao là người mà cổ nhân thường phong tặng: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Có nghĩa là giàu sang không sa đọa, nghèo hèn không thay đổi, trước uy quyền bạo lực không khuất phục.
-Qua nhân vật Huấn Cao, tác giả thể hiện niềm ngưỡng mộ với một lớp nhà nho tài hoa, có tâm, có chí, gặp hoàn cảnh trái ngang , tuy thất thế, nhưng vẫn hiên ngang, bất khuất , vẫn giữ thiên lương trong sáng, vẫn yêu cái đẹp, trọng cái tài và khẳng định sự bất tử của cái ĐẸP.
4.Nhận xét, chốt ý về nghệ thuật:
-Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo: cuộc gặp gỡ bất ngờ, éo le với viên quản ngục và thầy thơ lại.
- Trong cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã triệt để sử dụng nghệ thuật tương phản và bút pháp lãng mạn. Một loạt sự tương phản được khai thác thành công: không gian, thời gian, con người…
-Ngôn ngữ góc cạnh, giàu giá trị tạo hình. Những từ ngữ Hán Việt tạo không khí cổ xưa, trang trọng góp phần khắc họa chân dung, phẩm chất một nhà nho tài tử.
III. Kết bài
- Đánh giá chung về hình tượng nhân vật Huấn Cao: Nhân vật Huấn Cao thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân viết về những vẻ đẹp xa xưa nhưng vẫn còn vang bóng. Từ một nguyên mẫu có thực ngoài đời Cao Bá Quát, nhà văn đã xây dựng thành biểu tượng của con người có sự thống nhất giữa cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng.
- Khẳng định sức sống của tác phẩm "Chữ người tử tù " và vị trí của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Nêu thêm suy nghĩ, liên tưởng của người viết:
Xem thêm: Phân tích nhân vật Huấn Cao
Dàn ý phân tích nhân vật Viên quản ngục
I. Mở bài:
- Giới thiệu chung về vấn đề:
"Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một trong những truyện ngắn xuất sắc và nổi tiếng, đem đến nhiều ấn tượng đối với bạn đọc bao thế hệ. Trong truyện, cùng với hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục cũng là một hình tượng được Nguyễn Tuân dành nhiều tâm huyết, tình cảm để xây dựng, qua đó hiểu hơn những những bài học nhân sinh sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm đồng thời chia sẻ, đồng cảm với những quan niệm, suy nghĩ về con người, cuộc đời và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
II. Thân bài:
1. Con người viên quản ngục thể hiện qua cách ứng xử với Huấn Cao:
- Viên quản ngục tình cờ biết người mình bấy lâu ngưỡng mộ chính là người tử tù đang trong tay mình nên đã bất chấp sinh mệnh bản thân để có thể đối xử biệt đãi với Huấn Cao. Hành động đó thể hiện "tấm lòng biệt nhỡn liên tài" vô cùng đáng trân trọng.
- Khi bị Huấn Cao hiểu lầm, tỏ thái độ thách thức và buông những lời sỉ nhục, viên ngục quan vẫn cung kính giữ lễ.
- Viên coi ngục "mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết thì sẽ nhờ ông viết cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn".
- Khi nhận được tin dữ rằng Huấn Cao sắp sửa bị giải vào kinh chịu án, viên quản ngục tái nhợt người đi rồi vô cùng lo lắng, sợ nếu không xin được chữ Huấn Cao sẽ ân hận cả đời.
- Đằng sau thân phận một ngục quan thấp bé, tầm thường là tâm hồn một người nghệ sĩ khát khao, say mê cái đẹp, một người dám bất chấp sinh mệnh để bảo lưu gìn giữ cái đẹp.
- Viên quản ngục sống trong bóng tối nhà lao, sống giữa bộn bề bao cái xấu cái ác, cái chốn có thể tha hoá một con người lành thiện bất cứ lúc nào, tuy vậy vẫn giữ trọn vẹn tấm lòng liên tài, nhân cách thanh cao.
- Bởi vậy mà tử tù Huấn Cao đã đặt cho con người ấy một danh xưng thật tinh tế: "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
2. Con người viên quản ngục thể hiện ở lúc Huấn Cao cho chữ:
- "Trong không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ...", mỗi khi người tử tù viết xong một chữ là viên quản ngục lại " vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng".
- Khi nghe những lời khuyên bảo của người tử tù mình luôn ngưỡng mộ và trân trọng, ngục quan cảm động, vái lạy người tù một vái, " chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"".
- Thông thường sự khúm núm cúi đầu hay những giọt nước mắt chảy xuống thường thể hiện sự hèn kém, yếu đuối, tầm thường nhưng đặt trong hoàn cảnh này, những biểu hiện, thái độ của người quản ngục lại không thể hiện điều đó.
- Cả tư thế và tâm thế khi nhận chữ và lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đều rất thành kính trước cái đẹp, cái thiên lương, cái khí phách cao cả.
- Sự khúm núm và cái cúi đầu không thực sự yếu đuối, ủy mị, hèn kém mà nó lại giống như những điểm nhấn càng làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của một tâm hồn thánh thiện.
- Cái cúi đầu của quản ngục gợi ta nghĩ tới cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai hay một câu nói vô cùng nổi tiếng của V.Hugo: "Trước một trí tuệ vĩ đại, tôi cúi đầu. Trước một trái tim vĩ đại, tôi quỳ gối".
- Qua hành động, những cách ứng xử của viên quản ngục, ta càng thêm hiểu và trân trọng hơn nhân vật này, từ đó cũng phần nào thấm thía hơn một quan niệm nhân sinh sâu sắc mà tác giả gửi gắm: "Trong thẳm sâu mỗi con người đều ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ biết hướng tới cái đẹp, khát khao ánh sáng cái đẹp bởi vậy mà mỗi chúng ta hãy nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng thiên lương vì có những khi trong môi trường của cái xấu và cái ác, cái đẹp không lụi tàn mà có thể đẩy lùi cái xấu, cái ác và tồn tại một cách thật mạnh mẽ, bền bỉ.
III. Kết bài:
- Nêu khái quát lại những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân đối với nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm.
- Khẳng định tài năng và tấm lòng của tác giả Nguyễn Tuấn.
Trong bất kì một tác phẩm văn học đặc sắc nào luôn có những nhân vật gây ấn tượng sâu sắc với người đọc, qua hình tượng nhân vật ấy người ta hiểu hơn những thông điệp tác giả gửi gắm, hiểu hơn còn người, tấm lòng và tài năng của người nghệ sĩ chắp bút tạo nên tác phẩm. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao thì viên quản ngục trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân cũng là một nhân vật như vậy.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Viên quản ngục
Dàn ý phân tích cảnh cho chữ
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Vang bóng một thời (1940) đã được in đậm. Chữ người tử tù là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể nhận ra những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên truyện.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
Chữ người tử tù là truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân: Có nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng có một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây là một trong những truyện hay nhất trong Vang bóng một thời (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được Tự lực văn đoàn trao giải. Câu chuyện xoay quanh những ngày cuối đời, trong biệt giam của Huấn Cao trước khi về kinh thụ án. Vẻ đẹp của nhân vật này, tư tưởng của thiên truyện đều tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ, khi Huấn Cao viết tặng Quản ngục bức châm -“tiếng hát thiên nga” của một đời tài hoa. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.
2. Khái quát về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách độc đáo. Có thể thấy những nét nổi bật như sau:
- Luôn nhìn các sự vật hiện tượng từ độ văn hóa, thẩm mỹ.
- Luôn nhìn con người ở góc độ nghệ sĩ
- Đi tìm những cái phi thường, độc đáo, đặc biệt.
- Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
- So sánh, tưởng tượng, liên tưởng rất phóng túng, bất ngờ nhưng chính xác.
– > Những điều này đều có thể thấy được trong cảnh cho chữ ở cuối truyện Chữ người tử tù.
3. Phân tích sơ lược cảnh cho chữ.
- Nếu nói như GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt, và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: Nhân vật, thời gian, không gian.
* Nhân vật:
- Bình thường, người cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỉ đến độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. ở họ luôn toát ra sự an nhiên, điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.
- Ở đây, người cho chữ là 1 tử tù, người được cho chữ là quản ngục. Họ có vị trí đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt, cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục “khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ.
* Không gian:
- Thông thường, người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian của học thuật.
- Ở đây, người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian mà cái xấu, cái ác thống trị.
* Thời gian:
- Bình thường, người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.
- Ở đây, người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian, gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.
=> Chỉ ra những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong cảnh này.
– Luôn nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hóa thẩm mĩ và nhìn con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
+ Nếu nhìn cảnh cho chữ bằng con mắt xã hội học, không khó để thấy luôn mầm mống phản loạn ở đó: Những thứ không cần thiết lại được đem vào biệt giam, người cầm quyền trong tù lại “khúm núm”, “run run” trước tử tù…
Tuy nhiên, tác giả đã nhìn bằng con mắt văn hóa thẩm mĩ và thấy đây là cảnh phi thường. ở đó, mọi trật tự của xã hội dung tục đã bị đảo lộn hết, chỉ có cái đẹp thống lĩnh, cái cao cả và cái thiện lên ngôi để cứu rỗi tâm hồn con người như niềm hi vọng của thế giới.
+ Nguyễn Tuân cũng không nhìn nhân vật bằng con mắt thông thường. Với ông, Huấn Cao không phải là tử tù nguy hiểm mà là người nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử. Trong cảnh này, cái tài, thiên lương và khí phách của bậc chính nhân quyện vào nhau làm nên một vẻ đẹp có thể cứu rỗi những tâm hồn.
– Đi tìm những cái phi thường, quá độ, vượt ngưỡng.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn của những gì nhàn nhạt, trong khuôn khổ, ông luôn tìm đến những cái độc đáo. Trong cảnh này, mọi thứ đều vượt lên trật tự thông thường và người ta phải lấy một tiêu chí khác để đánh giá. Chính Nguyễn Tuân cũng khẳng định đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
– Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
+ Kiến thức điện ảnh: Để làm nổi bật cảnh cho chữ, tác giả như một nhà quay phim lành nghề đưa máy quay đến cận cảnh, để thấy “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, rồi lại đưa ống kính lên cao để soi rõ “ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Tiếp đó lại quay viễn cảnh với động tác của cả ba nhân vật.
+ Kiến thức hội hoạ: Tác giả vẽ bức tranh cho chữ với sự đối chọi gay gắt của hai mảng màu sáng và tối. Màu sáng của bó đuốc, tấm lụa bạch còn màu tối của, phân chuột, phân gián, mạng nhện.
Hai mảng màu ấy làm nền cảnh cho tâm cảnh là hình tượng Huấn Cao đang xuất thần sinh thành ra những con chữ như một báu vật.
+ Kiến thức điêu khắc: Nguyễn Tuân khắc hoạ hình tượng như một bức điêu khắc sống động với tư thế “đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc”, với trạng thái “ thở dài, buồn bã”. Ngoài ra, khi miêu tả ba người chăm chú trên tấm lụa bạch, người ta đã thấy đậm chất điêu khắc với những đường nét được chạm nổi, sống động.
– Ngoài ra, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sử dụng ở đây độc đáo, giàu chất tạo hình, có sắc thái biểu cảm cao và rất sáng tạo. Hơn nữa, chúng còn có nhịp điệu chậm rãi, trang trọng với những từ Hán Việt, gợi hồn xưa đất nước. Đây cũng chính là điều mà Tự lực văn đoàn ngạc nhiên khi đọc Vang bóng một thời và trao giải cho tập truyện, điều làm nên cái riêng của Nguyễn Tuân.
– > Tóm lại, nhìn từ mọi góc độ, đều thấy được những nét đặc trưng của Nguyễn Tuân trong cảnh cho chữ. chính vì vậy, có thể thấy rằng bút lực của nhà văn tài hoa đã tập trung ở cảnh này.
* Mở rộng liên hệ với một số tác phẩm khác của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám để thấy phong cách nghệ thuật của nhà văn bậc thầy này có những nét ổn định và có những cách tân.
Qua đó khẳng định rằng chính phong cách nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên thành công của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù nói riêng và vị trí của Nguyễn Tuân trong văn học Việt Nam nói chung.
III. Kết luận
Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ đối với nhà thơ, mà với nhà văn cũng thật cần thiết. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Xem thêm: Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Dàn ý phân tích truyện Chữ người tử tù
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân: Một cây bút tài hoa độc đáo, có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam
- Khái quát chung về tác phẩm Một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách tài hoa nghệ sĩ của ông, được in trong tập Vang bóng một thời (1940)
II. Thân bài
1. Tình huống truyện
- Không gian: nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ.
- Thời gian: những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao.
⇒ Không gian và thời gian góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống.
- Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường :
⇒ Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng
2. Nhân vật Huấn Cao
a. Một người nghệ sĩ tài hoa
- Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người:
- Có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”.
- “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật ở trên đời”.
b. Một con người có khí phách hiên ngang bất khuất
- Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.
- Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:
⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho
- Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”
⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
- Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì ...vào đây”.
⇒ Không khuất phục trước cường quyền.
⇒ khí phách của một người anh hùng.
c. Một nhân cách, một thiên lương cao cả
- Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.
- Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân
- Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa ... trong thiên hạ”
⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
⇒ Huấn Cao là một anh hùng - nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
3. Nhân vật quản ngục
a. Tấm lòng biệt liên tài
- Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ nghiêm kính khiêm nhường
- Dũng cảm biệt đãi Huấn Cao
- Cảm thấy tiếc nuối khi biết Huấn Cao sắp phải từ giữ cõi đời: “Bấy nhiêu ...vũ trụ”.
b. Sự khát khao và trân trọng cái đẹp
- Khát khao cái đẹp: mong ước của ông là “được treo ở nhà riêng một đôi câu đối” do chính tay Huấn Cao viết.
- Lo lắng nếu như không xin được chữ ông Huấn trước khi bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất”
4. Cảnh cho chữ
- Thời gian: đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”
- Địa điểm: trại giam tỉnh Sơn
- Không gian: buồng tối chật hẹp, ẩm ướt...
- Đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" :
- Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt:
- Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau
- Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.
⇒ Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù bậc nhất.
III. Kết bài
- Khẳng định những nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công của tác phẩm
-Chữ người tử tù là một văn phẩm xuất sắc đạt “gần đến sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
Xem thêm: Phân tích truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Dàn ý thái độ của Huấn Cao đối với Viên quản ngục
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù: Tác giả với phong cách tài hoa uyên bác. Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc trong Vang bóng một thời
- Khẳng định trong truyện ngắn này, nhân vật Huấn Cao và quản ngục là hai nhân trung tâm của tác phẩm.Thông qua thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục càng làm nổi bật nhân cách cao đẹp của họ
II. Thân bài:
1. Thái độ của Huấn Cao khi chưa biết quản ngục là “thanh âm trong trẻo”
a. Thái độ khi lần đầu tiếp xúc với quản ngục
- Giới thiệu hoàn cảnh gặp gỡ của hai nhân vật: Huấn Cao và quản ngục gặp nhau lần đầu tiên khi quản ngục tiếp nhận nhóm tử tù nguy hiểm, trong đó có Huấn Cao – thủ lĩnh
- Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải.
⇒ Đối với Huấn Cao, quản ngục và bọn lính áp giải chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. ⇒ Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo
⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho
b. Thái độ trong đối với quản ngục trong những ngày biệt giam
- Trong những ngày biệt giam, mặc dù được quản ngục đối đãi rất mực tử tế, nhưng do Huấn Cao nghĩ quản ngục vẫn là một tay sai trung thành cho chế độ, không có tấm lòng lương thiện nên ông vẫn lạnh lùng với những hành động biệt đãi của quản ngục:
- Hành động biệt đãi của quản ngục:
- Mong muốn: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”
- Sai người đem rượu và đồ nhắm đến cho Huấn Cao vì sợ trong buồng giam lạnh
- Khép nép bày tỏ: Biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều
- Thái độ, hành động của Huấn Cao:
+ Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”
⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
+ Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì ...vào đây”.
⇒ Không khuất phục trước cường quyền.
⇒ khí phách của một người anh hùng.
2. Thái độ của Huấn Cao thay đổi khi nhận ra quản ngục chính là “thanh âm trong trẻo”
- Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Cảnh cho chữ diễn ra thể hiện thái độ trân quý tấm lòng trong thiên hạ của Huấn Cao dành cho quản ngục
- Lời khuyên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn…”
⇒ Lời khuyên thể hiện thái độ trân trọng, lo lắng cho một nhân cách cao đẹp
- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa ... trong thiên hạ”
⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
⇒ Huấn Cao là một anh hùng - nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
III. Kết bài:
- Khẳng định thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục kể cả khi ông chưa biết tấm lòng và nhân cách cao đẹp của quản ngục đến khi ông đã biết càng làm nổi bật vẻ đẹp của khí phách và thiên lương trong sáng của Huấn Cao
Xem thêm: Phân tích thái độ của Huấn Cao đối với Viên quản ngục trong Chữ người tử tù