Thông báo 24/2013/TB-VPCP Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị trực tuyến triển khai công tác lao động, người có công và xã hội năm 2013
Thông báo 24/2013/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị trực tuyến triển khai công tác lao động, người có công và xã hội năm 2013 do Văn phòng Chính phủ ban hành.
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ ------------- Số: 24/TB-VPCP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2013 |
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN TRIỂN KHAI CÔNG TÁC LAO ĐỘNG, NGƯỜI CÓ CÔNG VÀ XÃ HỘI NĂM 2013
Ngày 07 tháng 01 năm 2013, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự và chỉ đạo Hội nghị trực tuyến triển khai công tác lao động, người có công và xã hội năm 2013. Tham dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; đại diện lãnh đạo Ủyban nhân dân, Hội đồng nhân dân, đoàn Đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, một số Ban, Bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và nhiều cán bộ, công chức ngành Lao động - Thương binh và Xã hội tại các điểm cầu trực tuyến trên toàn quốc.
Sau khi nghe lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2012, phương hướng, giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2013, phát biểu của các đại biểu, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã kết luận như sau:
1. Năm 2012, bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới; phải đối phó với nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và chịu ảnh hưởng khá nặng nề do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đặt ra cho năm 2012: kinh tế vĩ mô có bước tiến ổn định hơn, lạm phát được kiềm chế ở mức 6,8%; tăng trưởng kinh tế đạt trên 5% (tính theo giá năm 2010 là 5,25%). Lãi suất giảm mạnh; thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ tiếp tục phát triển, nhất là nông nghiệp đạt nhiều thành tựu quan trọng. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan tâm, chi ngân sách nhà nước cho việc thực hiện chính sách đối với người có công, hộ nghèo, bảo trợ xã hội tăng 33% so với năm 2011. Cả nước tạo được 1,52 triệu việc làm, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở đô thị tiếp tục duy trì ở mức không quá 4%; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,76%, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%; thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người có công; người dân ở vùng bị thiên tai, lũ lụt được hỗ trợ kịp thời, góp phần ổn định xã hội. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường; công tác đối ngoại tiếp tục đạt được nhiều kết quả. Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, chống lãng phí có tiến bộ; công tác thông tin, đối thoại của các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp và người dân được đẩy mạnh đã góp phần làm tăng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và việc quản lý, điều hành của Nhà nước.
Góp phần vào những kết quả chung của cả nước có sự đóng góp quan trọng, thiết thực của toàn thể cán bộ, công chức ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Thủ tướng Chính phủ biểu dương và đánh giá cao những kết quả đã đạt được của toàn ngành trong năm 2012.
2. Trong năm qua, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới, quan trọng, góp phần hoàn thiện một bước hệ thống thể chế, nhất là Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”, Bộ luật Lao động (sửa đổi), Pháp lệnh người có công với cách mạng (sửa đổi) và nhiều văn bản pháp quy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Ngành đã có nhiều cố gắng trong công tác tạo việc làm, giảm nghèo; hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch về chăm sóc người có công, bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội. Việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển thị trường lao động, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện quan hệ lao động, quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có đổi mới và đạt được những kết quả tích cực. Công tác an toàn, vệ sinh lao động được tiến hành với nhiều hoạt động hiệu quả, thiết thực hơn. Các nhiệm vụ bảo trợ xã hội, bình đẳng giới, hợp tác quốc tế, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí... đều được triển khai đồng bộ, đạt kết quả tích cực.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội năm qua vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục, nổi lên là: nhiều đề án trong Chương trình công tác chuẩn bị còn chậm; công tác quản lý người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế; chỉ tiêu tuyển mới dạy nghề đạt thấp, chất lượng dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác dạy nghề ở nông thôn chưa hiệu quả; tai nạn lao động làm chết người, tranh chấp lao động và đình công vẫn xảy ra nhiều nơi; còn nhiều hồ sơ tồn đọng trong giải quyết chính sách đối với người có công; việc ngăn chặn bạo lực, lạm dụng trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích trẻ em thực hiện hiệu quả còn thấp; đời sống của người lao động, nhất là hộ nghèo, đối tượng xã hội còn nhiều khó khăn; tệ nạn ma túy, mại dâm ở nhiều nơi vẫn diễn biến phức tạp.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục phát huy thành tích và những kết quả đạt được, nghiêm túc phân tích những mặt còn hạn chế, yếu kém tìm ra nguyên nhân để quyết tâm tháo gỡ, ra sức khắc phục khó khăn thực hiện tốt hơn nhiệm vụ trên từng lĩnh vực công tác trong thời gian tới.
3. Về nhiệm vụ năm 2013 của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, Thủ tướng Chính phủ đồng tình với 9 chỉ tiêu, 14 nhóm giải pháp nêu trong Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Các chỉ tiêu, giải pháp cơ bản là phù hợp, bám sát các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Chính phủ. Tuy nhiên, Bộ cần đưa ra giải pháp cụ thể hơn trong quá trình tổ chức thực hiện và cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
a) Về nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
- Bộ cần khẩn trương soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh và ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế để tạo công cụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phải coi đây là biện pháp đột phá.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm việc thực thi pháp luật và các mục tiêu, chỉ tiêu của ngành; tăng cường năng lực và đổi mới hoạt động thanh tra lao động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
- Nâng cao năng lực dự báo, nhất là dự báo về thị trường lao động góp phần thiết thực để xây dựng các chính sách phù hợp.
- Khẩn trương hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội theo tinh thần Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ. Chủ động xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế phối hợp liên ngành.
- Nâng cao năng lực cung cấp thông tin, giải trình, giải đáp về cơ chế, chính sách ở cấp Bộ, cấp địa phương để làm rõ kết quả thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, những mặt được, chưa được góp phần tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
b) Về công tác giảm nghèo bền vững
- Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, đặt biệt là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ động phối hợp với Ủy ban Dân tộc nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các cơ chế, chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh, bền vững đối với hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Rà soát việc tổ chức thực hiện, bổ sung các chính sách cần thiết, bảo đảm không để đồng bào ta bị đói do thiếu lương thực.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành bộ tiêu chí xác định hộ nghèo, trong đó phân định rõ các loại hộ nghèo làm căn cứ xây dựng chính sách phù hợp đối với từng đối tượng trên tinh thần Nhà nước hỗ trợ kịp thời, đúng mức nhưng không để tình trạng lợi dụng, ỷ lại. Đồng thời nghiên cứu, đề xuất chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các hộ cận nghèo.
c) Về công tác dạy nghề
- Tập trung thực hiện tốt Chiến lược dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; làm tốt công tác dạy nghề gắn với tạo việc làm, kết nối cung - cầu lao động để phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng của nước ta trong giai đoạn hiện nay; quan tâm đào tạo nghề chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội, gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.
- Thực hiện việc sơ kết công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, phân tích, đánh giá rút ra bài học để thay đổi phương pháp dạy nghề cho lao động nông thôn theo hướng: kết hợp đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho nông dân gắn với công việc họ đang làm và đào tạo để chuyển nghề bảo đảm người lao động có thể chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn.
d) Về chính sách đối với người có công
- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt chính sách đối với người có công; rà soát, giải quyết dứt điểm các trường hợp hồ sơ còn tồn đọng; xử lý nghiêm các trường hơp khai man hồ sơ để hưởng chính sách.
- Chủ động phối hợp với Bộ Xây dựng triển khai thực hiện tốt công tác hỗ trợ nhà ở đối với người có công, bảo đảm hoàn thành mục tiêu Quốc hội giao.
- Phối hợp với Bộ Quốc phòng làm tốt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ cả ở trong nước, ở nước bạn Lào và Campuchia; áp dụng các biện pháp khoa học trong công tác tìm kiếm, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.
đ) Về một số lĩnh vực khác
- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; tập trung phát triển thị trường lao động theo hướng lựa chọn thị trường có thu nhập cao, ổn định và an toàn cho người lao động, phải gắn với việc chuẩn bị tốt công tác đào tạo, nâng cao chất lượng của người lao động. Riêng thị trường lao động Hàn Quốc, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các địa phương cần thực hiện đồng bộ, kiên quyết và hiệu quả các giải pháp nhằm đưa người lao động Việt Nam đã hết thời hạn về nước, đồng thời vận động và hợp tác với Hàn Quốc nối lại thị trường này trong thời gian sớm nhất.
- Rà soát, kiểm tra, xử lý trên tinh thần hữu nghị, hợp tác, đúng pháp luật để quản lý chặt chẽ người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và đưa những người nước ngoài làm việc bất hợp pháp về nước theo đúng quy định của pháp luật.
- Làm tốt hơn công tác thanh tra, kiểm tra về an toàn, vệ sinh lao động; nâng tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp; tăng cường công tác truyền thông, thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới.
- Làm tốt công tác xây dựng quan hệ lao động hài hòa, phải bám sát tình hình lao động ở các khu công nghiệp lớn, các doanh nghiệp lớn để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, bất đồng,... nhằm hạ thấp số vụ tranh chấp lao động, đình công so với năm 2012.
e) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ động phối hợp với các địa phương nắm chắc tình hình, làm tốt công tác chuẩn bị Tết Nguyên đán Quý Tỵ, thực hiện tốt các chính sách đối với người có công, người nghèo, nhất là người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, ở vùng đặc biệt khó khăn.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, cơ quan liên quan biết và thực hiện./.
Nơi nhận: | KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |