Văn mẫu lớp 11: Phân tích ý nghĩa lời đề từ và nhan đề bài thơ Tràng Giang 2 Dàn ý & 10 bài văn mẫu lớp 11
Tràng giang là một trong những bài thơ hay, nổi tiếng của Huy Cận. Bài thơ Tràng giang sẽ được học trong chương trình Ngữ văn 11 Kết nối tri thức tập 1 và Ngữ văn 11 Cánh diều tập 2. Vậy ý nghĩa nhan đề Tràng giang là gì? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Phân tích nhan đè Tràng giang cực chất dưới đây gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình, giúp các bạn học môn Ngữ văn dễ dàng và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Từ đó hiểu rõ được ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích khổ 1 Tràng giang, mở bài Tràng giang.
Phân tích nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang
- Dàn ý phân tích lời đề từ và nhan đề bài Tràng Giang
- Giải thích ý nghĩa nhan đề bài Tràng giang
- Nhan đề Tràng giang
- Phân tích lời đề từ và nhan đề Tràng Giang
Dàn ý phân tích lời đề từ và nhan đề bài Tràng Giang
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
– Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận.
– Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người tình đời, lòng yêu quê hương tha thiết.
– Bài thơ có nhan đề và lời đề từ vô cùng độc đá.
II. Thân bài
* Ý nghĩa nhan đề:
– Gọi Tràng Giang để tránh trùng lặp với Trường Giang, con sông dài trong thơ đường.
– Tràng Giang gợi hình ảnh mênh mông sông nước, dòng sông được mở rộng vô biên.
– Nhan đề vừa gợi ra ấn tượng khái quát và trang trọng, vừa có chút cổ điển.
=>Tràng Giang gợi âm hưởng dài, rộng, ngân vang trong lòng người đọc, ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
* Ý nghĩa lời đề từ:
– Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ của tác giả.
- Nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la.
- Hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, nỗi niềm của cái tôi.
– Lời đề từ chính là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng.
III. Kết bài:
Ngay ở nhan đề và lời đề từ của tác phẩm đã gợi sự ấn tượng đối với người đọc và mạch cảm xúc cho cả bài thơ.
Dàn ý số 2
I. Mở bài
Giới thiệu vấn đề: Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận được sáng tác trong giai đoạn này. Đặc biệt, ngay nhan đề Tràng giang cùng lời đề độc đáo đã góp phần dẫn dắt, định hướng đồng thời hấp dẫn người đọc tìm hiểu, khám phá tác phẩm.
II. Thân bài
1. Nhan đề
– Nhan đề “Tràng giang” không chỉ góp phần hé mở nội dung bài thơ mà tràng giang còn chứa đựng được bao tâm sự, nỗi niềm thầm kín của Huy Cận về cuộc đời thế sự.
– Nhan đề “Tràng giang” với vần “ang” ở hai tiếng đã góp phần gợi mở cảm xúc chủ đạo của bài thơ, mang đến cho bài thơ ấn tượng đầu tiên về sự u buồn dai dẳng, nặng nề luôn da diết
- Tràng giang lại gợi ra không gian bất tận, mênh mông cả về chiều dài và chiều rộng của con sông
- Vần “ang” kéo dài vô tận như nỗi niềm sầu muộn, suy tư của Huy Cận khi đứng trước sự mênh mông, vô định của dòng sông.
– Nhan đề “tràng giang” tuy ngắn gọn nhưng lại làm nổi bật được những nội dung, tư tưởng, cảm xúc chủ đạo được gửi gắm trong bài thơ.
2. Lời đề từ
- Lời đề từ của bài Tràng giang “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như một lời tâm sự đầy da diết nhưng lại có thể ẩn chứa nhiều ẩn ý sâu sắc về nội dung và nghệ thuật.
- Không gian gợi mở ra trước mắt người đọc là diện không gian lớn, choáng ngợp với tầm vóc của vũ trụ.
- Lời đề từ của bài thơ đã thể hiện được tâm trạng suy tư, sầu muộn của Huy Cận về sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn.
- Bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận
III. Kết bài
Có thể thấy với nhan đề và lời đề từ đầy tinh tế, độc đáo đã thể hiện được cái tài hoa của Huy Cận, đồng thời bộc lộ được cảm hứng, tư tưởng trung tâm của bài thơ Tràng giang.
Giải thích ý nghĩa nhan đề bài Tràng giang
Nhan đề bài thơ Tràng Giang của huy cận Là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Đó là một dòng sông dài rộng bao la. Là dòng sông nước Việt Nam Có từ thuở khai Thiên Lập địa rồi. Nó không chỉ dài về không gian mà con dài cả về thời gian. Đó là con sông được tác giả vẽ theo ba chiều. Đầu tiên là chiều rộng, sâu, và chiều dài cuả tác phẩm. Tác phẩm càng dài càng rộng bao nhiêu thì tâm hồn thi sĩ càng cô sầu, cô liêu bấy nhiêu. Qua nhan đề của bài thơ tràng giang của Huy Cận ta cũng thấu hiểu được phần nào tâm hồn cao cả của một nhà thi sĩ.
Phân tích ý nghĩa nhan đề Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Huy Cận là nhà thơ của nỗi niềm khắc khoải không gian, bởi vậy, thơ ông luôn xuất hiện những không gian bao la rộng lớn, qua đó nhà thơ gửi gắm nỗi niềm tâm trạng của mình. "Tràng giang" là một bài thơ như thế. Qua nhan đề, người đọc không chỉ thấy được sự cổ kính mà còn thấy được nét phong cách mới mẻ hiện đại của Huy Cận.
Ban đầu Huy Cận định đặt tên cho bài thơ của mình là "Chiều trên sông" - một cụm từ thuần Việt gợi cảnh ngày tàn trên dòng sông, thế nhưng sau đó, với cảm quan của một nhà thơ vừa hiện đại nhưng không kém phần cổ điển, ông đã đổi tên thành "Tràng giang". Tràng giang là từ Hán Việt và có tên gọi khác là "trường giang", dùng để chỉ con sông dài. Việc sử dụng từ Hán Việt làm nhan đề không chỉ giúp bài thơ gợi cảnh sông nước cụ thể mà dường như hiện lên là cảnh sông nước muôn đời. Dòng sông không chỉ hiện lên với chiều dài, chiều rộng của không gian địa lí mà còn mang chiều sâu lịch sử, văn hóa. m hưởng cổ kính, trang trọng vì thế được nhấn mạnh hơn bao giờ hết.
Huy Cận đã khéo léo biến "trường" thành "tràng" để tạo hiệu quả nghệ thuật sắc sảo. Việc biến âm này vừa khiến người đọc không nhầm lẫn con sông này với sông Trường Giang bên Trung Quốc, đồng thời âm "ang" là âm mở rộng giúp không gian hiện lên không chỉ có chiều dài mà còn như được mở ra về chiều rộng. Vì thế, bài thơ không đơn thuần là miêu tả cảnh sông nước mà đã trở thành thi phẩm miêu tả không gian mang tầm vóc vũ trụ.
Qua nhan đề, người đọc có thể hình dung ra một không gian vũ trụ bao la và tác giả dường như ngầm báo hiệu con người sẽ cô đơn trước không gian rộng lớn mênh mang ấy. Nỗi lòng thi nhân bởi vậy chỉ cần qua nhan đề đã khái quát được đề tài, bên cạnh đó khơi gợi cho bạn đọc bao cảm xúc sâu xa.
Bài làm mẫu 2
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới ở Việt Nam. Trước cách mạng, giọng thơ Huy Cận nổi bật với nỗi buồn u uất, sầu não, thể hiện cái tôi đầy trăn trở với nỗi niềm cá nhân, nỗi niềm thời thế. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận được sáng tác trong giai đoạn này. Đặc biệt, ngay nhan đề Tràng giang cùng lời đề độc đáo đã góp phần dẫn dắt, định hướng đồng thời hấp dẫn người đọc tìm hiểu, khám phá tác phẩm.
Nhan đề được coi là xuất phát điểm đầu tiên, cửa ngõ quan trọng để người đọc có thể hấp dẫn, định hướng người đọc đến và khám phá tác phẩm. Nhan đề “Tràng giang” cũng vậy, không chỉ góp phần hé mở nội dung bài thơ mà tràng giang còn chứa đựng được bao tâm sự, nỗi niềm thầm kín của Huy Cận về cuộc đời thế sự.
Nhan đề “Tràng giang” với vần “ang” ở hai tiếng đã góp phần gợi mở cảm xúc chủ đạo của bài thơ, mang đến cho bài thơ ấn tượng đầu tiên về sự u buồn dai dẳng, nặng nề luôn da diết, triền miên trong cảm xúc của tác giả. Tràng giang là cái nói khác của “trường giang” nghĩa là một con sông dài (theo nghĩa Hán Việt) nhưng tác giả Huy Cận không sử dụng nguyên cụm từ trường giang mà cải biến thành “tràng giang”, bởi trường giang chỉ gợi ra chiều dài của con sông còn tràng giang lại gợi ra không gian bất tận, mênh mông cả về chiều dài và chiều rộng của con sông, vì vậy mà con sông trở nên dài rộng hơn, mênh mang hơn, xa xôi khắc khoải hơn trong tâm trí của người đọc. Vần “ang” kéo dài vô tận như nỗi niềm sầu muộn, suy tư của Huy Cận khi đứng trước sự mênh mông, vô định của dòng sông. Hình ảnh “tràng giang” trong bài thơ có thể bắt nguồn từ hình ảnh con sông Hồng trong thực tế, đứng trước bến đò Chèm, tác giả đã có những suy tư, bế tắc về cuộc đời, về con người. Nhan đề “tràng giang” tuy ngắn gọn nhưng lại làm nổi bật được những nội dung, tư tưởng, cảm xúc chủ đạo được gửi gắm trong bài thơ.
Nếu nhan đề là cửa ngõ có vai trò gợi mở, hấp dẫn người đọc đến và khám phá bài thơ thì lời đề từ chính là tiêu điểm thâu tóm nội dung của bài thơ. Tuy nhiên, trong thực tế không phải bài thơ nào cũng có lời đề từ. Lời đề từ của bài Tràng giang “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như một lời tâm sự đầy da diết nhưng lại có thể ẩn chứa nhiều ẩn ý sâu sắc về nội dung và nghệ thuật. Lời đề từ này vốn được trích từ bài thơ “Nhớ hờ” trong tập Lửa thiêng. “Trời rộng”, “sông dài” đã gợi mở ra những diện không gian đa chiều, phạm vi không gian từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Không gian gợi mở ra trước mắt người đọc là diện không gian lớn, choáng ngợp với tầm vóc của vũ trụ.
Nếu “bâng khuâng” là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi đứng trước không gian rộng lớn của vũ trụ thì “nhớ” lại là sự hoài niệm của con người về một điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ. Lời đề từ của bài thơ đã thể hiện được tâm trạng suy tư, sầu muộn của Huy Cận về sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn; bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận đúng như nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét “Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi”.
Phân tích lời đề từ và nhan đề Tràng Giang
Bài làm mẫu 1
Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đập của con tim. Tràng giang của Huy Cận đã tác động rất sâu sắc vào trong xúc cảm của bạn đọc. Hơn nữa, mỗi một bài thơ hay thường tác động đầu tiên đến với độc giả bạn đọc là nhờ âm điệu. Khi nội dung ta còn chưa biết rõ, âm điệu bài thơ đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ. Cảm hứng chung của độc giả bạn đọc khi tiếp cận Tràng Giang là giọng thơ buồn, rất hợp với nỗi lòng của thi nhân, một nhà thơ chìm đắm trong cái tôi cô đơn siêu hình bản ngã
Bài thơ hấp dẫn độc giả bạn đọc đầu tiên là từ nhan đề. Có những người cả đời lặn lội với văn chương mà chẳng để lại cho đời 1 áng văn hay, một bài thơ đẹp nào. Vì lẽ đó, khi sáng tác một thi phẩm nghệ thuật, các bậc tao nhân thường băn khoăn trăn trở cho cách đặt tên nhan đề. Nhan đề của một thi phẩm nghệ thuật thường chứa đựng, hé lộ toàn bộ ND của nó. Không phải ngẫu nhiên trên thi đàn văn chương, ta bắt gặp những tác phẩm được đổi tên nhan đề. “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”; “Đôi mắt” của Nam Cao ban đầu có tên là “Tiên sư anh Tào Tháo”; “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu ban đầu có tên là “Mảnh trăng”… Nhan đề Tràng Giang của Huy Cận vốn là hai từ Hán Việt được ghép lại với nhau nhằm miêu tả một dòng sông dài đó chính là dòng sông Hồng bởi khi viết bài thơ này, Huy Cận đang ngồi bên bến bờ Nam Chèm ngắm nhìn con sông Hồng mênh mông sóng nước. Dòng sông ấy nó không chỉ dài về không gian địa lí, nó còn dài cả về TG lịch sử. Nó vĩnh viễn thuộc về đất trời Việt Nam, nó có từ thuở khai thiên lập địa. Chẳng thế mà Chế Lan Viên trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” có viết:
“Sông Hồng chảy về đâu và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần phù đổng sẽ vươn mây”
Tuy nhiên, trong tiếng Hán Việt hiện hành có 2 từ để miêu tả chiều dài đó là chữ “trường” và chữ “tràng”. Việc Huy Cận không viết là “Trường Giang” mà viết là “Tràng Giang” cho thấy ông là một nhà văn rất tinh tế trong việc sử dụng tiếng Việt bởi chữ “trường” chỉ đơn thuần để chỉ chiều dài còn chữ “tràng” với âm “ang” là âm mở không chỉ gợi nên chiều dài của con sông mà còn gợi nên cả chiều rộng của con sông. Đó là dòng sông đã được Huy Cận vẽ lên ở không gian 3 chiều: sâu chót vót, rông mênh mông, dài dằng dặc. Mà không gian càng mênh mông vô tận bao nhiêu thì tâm hồn của Huy Cận lại càng cô liêu bấy nhiêu. Như vậy, ngay từ nhan đề của tác phẩm, Huy Cận đã bộc lộ được rõ phong cách, cá tính văn chương và sở trường của mình – một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi không gian.
Bài thơ còn có lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Trong một số thi phẩm nghệ thuật ta bắt gặp lời đề từ. Lời đề từ có thể là một câu văn xuôi mà tác giả mượn của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm “nước mắt” trước cách mạng mà ông mượn lời của nhà văn Pháp François Coppée: “Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ.” Lời đề từ có thể là câu văn vần của chính nhà thơ như trong “Vội vàng” Xuân Diệu có viết:
“Tôi muốn tắt nắng đi…
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Ta cũng không thể bỏ qua được khổ thơ đề từ của nhà thơ Tố Hữu trong tập “Việt Bắc”
“Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên”
Lời đề từ không phải là một thứ trang sức làm đẹp da cho 1 thi phẩm nghệ thuật. Trái lại, nó là một dụng ý nghệ thuật, một xuất phát điểm. Nó cung cấp cho người yêu thơ 1 chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám phá nội dung của tác phẩm. Lời đề từ định hướng từ thi liệu cho đến âm điệu của bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.” Lời đề từ này có âm điệu buồn và đây cũng chính là âm điệu của bài thơ Tràng Giang. Đọc kĩ lời đề từ, ngẫm nghĩ lại, ta thấy ở đó Huy Cận đã đưa ra hai thi liệu chính mà tác giả đã dùng để xây dựng lên Tràng Giang đó là “Trời rộng” và “sông dài”. Hai thi liệu này kết tinh ở Hai câu thơ đẹp nhất trong bài Tràng Giang:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Và thế là trong hai khổ thơ còn lại Huy Cận đã triển khai trên những thi liệu này. Khổ thơ thứ ba là dòng sông dài dằng dặc với những cánh bèo đang chảy trôi về nơi vô định. Khổ thơ cuối cùng là bầu trời cao rộng với lớp lớp mây cao. Mà trong thi ca, nói về sông, trời là nói về giang sơn; mà nói về giang sơn là nói về Tổ quốc. Như vậy, ta có thể thấy bài thơ đã bộc lộ rõ tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn của Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca mà theo như Nguyễn Tuân là “Sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy mình thiếu quê hương” nói chung. Còn Chế Lan Viên lại viết:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy
Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”
Bài làm mẫu 2
Trong bài thơ Mai Sau (in trong tập thơ Riêng chung) nhà thơ Huy Cận đã tự bạch lòng mình:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm...
Nỗi nhớ thương không biết đã nguôi chưa?
Hay lòng chàng cứ tủi nắng, sau mưa
Cùng đất nước mà lặng buồn sông núi?.
Thơ Huy Cận trước cách mạng rất buồn, vì vậy ông thường tìm đến thiên nhiên để:
Vui chung vũ trụ nguôi sầu trần gian
Xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn văn chương Việt Nam năm 1940 với tập thơ Lửa thiêng”. Khi tập thơ xuất hiện ta bắt gặp một giọng thơ buồn ảo não của:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Linh hồn của tập thơ Lửa thiêng” chính là bài thơ Tràng Giang”. Như cái tên của nó, bài thơ là một dòng sông dài. Đó là một dòng sông tâm trạng để Huy Cận gửi gắm cái tôi” của một thời thơ mới. Đồng thời Tràng Giang” là bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước một cách thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại thi ca nói chung. Nhờ đó mà Xuân Diệu nhận định: Tràng Giang là bài thơ cuối cùng dọn lòng đến với giang sơn Tổ quốc”.
Toàn bộ vẻ đẹp ấy kết tinh ngay ở nhan đề cũng như lời đề từ của bài thơ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Bài thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề. Có những người suốt đời lặn lội với văn chương nhưng cũng chẳng để lại cho đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Vì vậy, khi người nghệ sĩ sáng tác ra được một thi phẩm nghệ thuật, họ thường trăn trở băn khoăn cho cách đặt nhan đề. Nhan đề của một tác phẩm thường chứa đựng nội dung của nó. Viết về một xã hội tăm tối trước cách mạng, Ngô Tất Tố có tiểu thuyết Tắt Đèn”. Để ca ngợi cái tâm của người nghệ sĩ, những nho sĩ cuối mùa nay vẫn còn vang bóng, Nguyễn Tuân có tác phẩm Chữ người tử tù”,…Nhan đề của bài thơ trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Tràng Giang” vốn là hai từ Hán Việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông Hồng-dòng sông đã gợi ý gợi tứ để nhà thơ Huy Cận viết thành công bài thơ này. Dòng sông ấy vĩnh viễn thuộc về đất nước Việt Nam, nó có từ thuở khai thiên lập địa. Nó không chỉ dài về không gian địa lý mà còn dài về khoảng thời gian lịch sử. Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên có viết:
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều dài đó là từ Tràng” và từ Trường”. Ở đây nhà thơ Huy Cận không viết là Trường Giang” mà lại viết là Tràng Giang”. Như vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng Tiếng Việt. Bởi chữ” Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ Tràng” với âm vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông. Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều: sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan đề Tràng Giang”đã phần nào bộc lộ được sở trường và phong cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi bước đi của không gian là Tràng Giang” cũng là một.
Bài thơ Tràng Giang” có lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề từ. Lời đề từ không phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ thuật. Trái lại lời đề từ là một xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật. Nó cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám phá nội dung của thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà tác giả mượn lời của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm Nước mắt” khi ông mượn lời của nhà văn Pháp Francois Coppée, ông viết: "Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có thể kể đến lời đề từ của Chế Lan Viên trong bài thơ Tiếng Hát Con Tàu”:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây dựng trong bài thơ. Lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên trước mắt người đọc hai thi liệu chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều này được kết tinh trong hai câu thơ được xem là trung tâm của bài thơ Tràng Giang
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ lên hình ảnh dòng sông dài, mênh mông, rợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. Tràng Giang” là bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu vào trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết: "Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước Là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu”.
Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung. Đó là những con người: "Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương” (nói như Nguyễn Tuân).
Bài làm mẫu 3
Tác giả Huy Cận là một nhà thơ rất nổi tiếng tiêu biểu cho phong trào thơ mới cùng với nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… các nhà thơ này đã làm nên một nền thi ca mới cho dân tộc Việt Nam. Với những tác phẩm giàu chất yêu quê hương, dạt dào tình cảm, thể hiện nỗi sầu nhân tình thế thái…
Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng đặc sắc, thể hiện được tâm trạng u uất của người thi sĩ, với những lời thơ da diết sâu lắng, tác giả Huy Cận đã thể hiện tình cảm của mình. Thể hiện nỗi buồn man mác trước thời cuộc.
Ý nghĩa và nhan đề bài thơ gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng sâu sắc khó quên. Nó như linh hồn của bài thơ tạo nên phong cách riêng của bài thơ Huy Cận. Đồng thời thể hiện nội dung của bài thơ.
Nhan đề của bài thơ “Tràng Giang” chính là cửa ngõ tâm hồn của bài thơ, là những lời gợi mở để người đọc có thể đi vào chi tiết nội dung bài thơ. Những lời tựa “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” càng thể hiện rõ nét hơn nội dung và phong cách sáng tạo của nhà thơ.
Trong tác phẩm của mình Huy Cận thể hiện nỗi niềm thầm kín trong nhan đề của bài thơ dù nó chỉ có hai chữ ngắn ngủi “Tràng Giang” nhưng gợi lên cho người đọc rất nhiều cảm nghĩ. Chính nhan đề bài thơ đã gợi lên cho người đọc những suy nghĩ riêng và cảm nhận sâu sắc về nội dung bài thơ.
Trong bất kỳ một tác phẩm văn học thì nhan đề chính là cái tên của đứa con tinh thần. Mỗi tác giả khi lựa chọn đặt tên cho tác phẩm của mình đều suy nghĩ rất nhiều. Cân nhắc rất kỹ lưỡng, thì mới có thể đặt bút viết một nhan đề.
Có những nhà thơ viết thơ rồi mới đặt nhan đề bài thơ, nhưng có những người đặt nhan đề trước rồi mới viết những dòng thơ. Nhưng dù sáng tạo theo phong cách nào ta cũng thấy rằng nhan đề chính là nội dung khái quát là linh hồn của một tác phẩm văn học.
Hai từ nhan đề “Tràng Giang” thể hiện một dòng sông dài mênh mang, thể hiện những sự muộn phiền của nhà thơ trước nỗi buồn của thời cuộc. Trong cảnh hoàng hôn, mặt trời vừa tắt, gợi lên trong lòng những nỗi buồn man mác, mênh mông như trời biển.
Đi theo nhan đề Tràng Giang là lời tựa của bài thơ gợi nhiều cảm xúc “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thể hiện sự mênh mang của lòng người trước thời cuộc, trước cảnh mênh mông của đất trời. Chính sự mênh mông của không gian bao la, con người trở nên nhỏ bé, càng gợi lên nỗi buồn mênh mang, man mác, trong lòng của tác giả.
Bài làm mẫu 4
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác theo từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám đối lập với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang” tiêu biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với nhiều nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.
Nhan đề chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩa, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. Mỗi nhan đề đều toát lên ý nghĩa riêng biệt làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm đó.
Một số nhan đề có tính chất gợi mở, một số nhan đề khẳng định nội dung. Tuy nhiên, sáng tạo theo cách viết nào thì nó cũng bao hàm những dụng ý nghệ thuật riêng. Nhan đề của bài thơ có tên “Tràng giang” với vần “ang’ chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông Hồng rộng lớn mênh mông này. Và hình ảnh cụ thể của dòng “tràng giang” có lẽ là dòng sông Hồng. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả, đồng thời chồng chất những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới nhưng không tìm được con đường đi riêng cho chính mình. Như vậy nhan đề “Tràng giang” đã được làm sáng rõ, với ý nghĩa sâu xa như vậy.
Còn về lời đề từ, không phải bài thơ nào cũng có. Thực ra lời đề từ chính là tiêu điểm thâu tóm nội dung của tác phẩm, nhưng nội dung này chỉ là ở bề chìm, yêu cầu người đọc cần phải đi sâu khai thác mới có thể khám phá ra điều này. Lời đề từ của bài “tràng giang” là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, một câu thơ thốt lên nhưng đầy ẩn ý nội dung và nghệ thuật. Dường như âm điệu chủ đạo của lời đề từ là sự nhẹ nhàng, buồn man mác, buồn len lỏi vào tâm hồn của con người. Với biện pháp đảo trật tự cú pháp “bâng khuâng” lên đầu câu, Huy Cận đã khiến người đọc vướng vào những tâm sự không thể giải bài, cũng như khó có thể nói ra cùng ai.
Huy Cận muốn mở ra một không gian rộng lớn, mênh mông của dòng sông để đi sâu vào chiều dài, chiều sâu của lòng người. Hẳn đây là một dụng ý nghệ thuật tuyệt vời mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Huy Cận đứng trước sông Hồng nhưng lại nhớ chính con sông này, có chăng là tâm sự đứng trước nhiều con đường, nhiều ngã rẽ nhưng lại không biết chọn con đường đi nào trọn vẹn nhất.
Với nhan đề và lời đề từ đầy ý nghĩa như thế nào, bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã có sức ám ảnh lớn đối với người đọc.
Bài làm mẫu 5
Một tác phẩm thành công phải là tác phẩm được sự kết tinh những tinh hoa, những cảm xúc sâu lắng của tác giả đối với tác phẩm của mình, trong đó bài thơ Tràng Giang luôn cuốn hút người đọc bởi sự tinh tế ngay trong chính nhan đề và lời đề từ của tác phẩm.
Bài thơ Tràng Giang là những nỗi niềm sâu kiến của tác giả khi thể hiện trong bài thơ, đó là những ý nghĩa toát lên nhằm làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Một tác phẩm thành công luôn là tác phẩm có sự hội tụ đầy đủ của cả nội dung và nghệ thuật trong đó nhan đề Tràng Giang gợi lại cho con người cảm giác con sông mênh mông, dài rộng, thể hiện sự mênh mang trong cảm xúc của tác giả. Nhan đề của bài thơ là Trang Giang, với vần điệu đều là vần “ ang” mang những cảm xúc hàm chứa những không gian rộng mở. Tràng Giang vốn là con sông ở Trung Quốc, Tràng có nghĩa là dài, ở đây Tràng Giang có ý nghĩa chỉ con sông dài, rộng, mênh mang.
Tràng Giang không chỉ nói con sông dài, mà qua đây mượn sông để tác giả nói lên đúng tâm trạng của tác giả khi đứng trước dòng sông với sự mơ mộng, cô đơn và tâm trạng buồn của tác giả. Đứng trước con sông rộng dài, tâm trạng của tác giả như ùa thêm nhiều xúc cảm, sự cô đơn, lạc lõng, nỗi nhớ quê hương đang dần hàm chứa mạnh mẽ, thể hiện được tình yêu quê hương, yêu đất nước.
Lời đề từ của bài thơ cũng mang ý nghĩa nói đến hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông, mơ mộng “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn đó, sự bâng khuâng trong chính tâm hồn của tác giả trước dòng sông quê hương, thể hiện những khát khao mạnh mẽ của tác giả về cuộc sống, sự mênh mang, nỗi nhớ mênh mang của lời đề từ, không chỉ làm cho người đọc có suy nghĩ về chiều sâu mà trên bề mặt ngôn từ nó cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Lời đề từ của bài thơ cũng mang ý nghĩa nói đến hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông, mơ mộng “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn đó, sự bâng khuâng trong chính tâm hồn của tác giả trước dòng sông quê hương, thể hiện những khát khao mạnh mẽ của tác giả về cuộc sống, sự mênh mang, nỗi nhớ mênh mang của lời đề từ, không chỉ làm cho người đọc có suy nghĩ về chiều sâu mà trên bề mặt ngôn từ nó cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Lời đề từ của bài thơ cũng mang ý nghĩa nói đến hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông, mơ mộng “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn đó, sự bâng khuâng trong chính tâm hồn của tác giả trước dòng sông quê hương, thể hiện những khát khao mạnh mẽ của tác giả về cuộc sống, sự mênh mang, nỗi nhớ mênh mang của lời đề từ, không chỉ làm cho người đọc có suy nghĩ về chiều sâu mà trên bề mặt ngôn từ nó cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Bài làm mẫu 6
Bài thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề. Có những người suốt đời lặn lội với văn chương nhưng cũng chẳng để lại cho đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Vì vậy, khi người nghệ sĩ sáng tác ra được một thi phẩm nghệ thuật, họ thường trăn trở băn khoăn cho cách đặt nhan đề. Nhan đề của một tác phẩm thường chứa đựng nội dung của nó.
Viết về một xã hội tăm tối trước cách mạng, Ngô Tất Tố có tiểu thuyết “Tắt Đèn”. Để ca ngợi cái tâm của người nghệ sĩ, những nho sĩ cuối mùa này vẫn còn vang bóng, Nguyễn Tuân có tác phẩm “Chữ người tử tù”,…Nhan đề của bài thơ là “Tràng Giang” cũng là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. “Tràng Giang” vốn là hai từ Hán Việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông Hồng-dòng sông đã gợi ý gợi tứ để nhà thơ Huy Cận viết thành công bài thơ này. Dòng sông ấy vĩnh viễn thuộc về đất nước Việt Nam, nó có từ thuở khai thiên lập địa. Nó không chỉ dài về không gian địa lý mà còn dài về khoảng thời gian lịch sử. Trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên có viết:
“Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”.
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều dài đó là từ “Tràng” và từ “Trường”. Ở đây nhà thơ Huy Cận không viết là “Trường Giang” mà lại viết là “Tràng Giang”. Như vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng Tiếng Việt. Bởi chữ “Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ “Tràng” với âm “vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông. Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều: sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan đề “Tràng Giang”đã phần nào bộc lộ được sở trường và phong cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi bước đi của không gian.
Bài thơ “Tràng Giang” có lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề từ. Lời đề từ không phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ thuật. Trái lại lời đề từ là một xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật. Nó cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám phá nội dung của thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà tác giả mượn lời của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm “Nước mắt” khi ông mượn lời của nhà văn Pháp Francois Coppée, ông viết:
“Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có thể kể đến lời đề từ của Chế Lan Viên trong bài thơ “Tiếng Hát Con Tàu”:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây dựng trong bài thơ. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên trước mắt người đọc hai thi liệu chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều này được kết tinh trong hai câu thơ được xem là trung tâm của bài thơ “Tràng Giang”:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ lên hình ảnh dòng sông dài, mênh mông, rợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. “Tràng Giang” là bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu vào trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết:
“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước Là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu”.
Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung. Đó là những con người:
“Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương” (nói như Nguyễn Tuân).
Còn Chế Lan Viên viết:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”.
Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của Hoài Thanh, Hoài Chân trong “Một thời đại trong thi ca” để kết thúc bài viết của mình:
“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Bài làm mẫu 7
Bài thơ “Tràng giang” được gợi tứ từ cảnh sông Hồng vào một buổi chiều thu 1939. Theo lời tâm sự của Huy Cận: Hồi đó ông theo học ở trường canh nông Hà Nội, lại phải sống trong cảnh xa quê và sẵn mang trong lòng nỗi cô đơn. Cho nên vào một buổi chiều thu khi tác giả đứng ở bờ Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng, mênh mang sông nước, bốn bề vắng lặng bao la nghĩ về kiếp người nổi trôi nhỏ bé, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng như đang được trải ra như những lớp sóng và Huy Cận đã viết “Tràng giang”.
Lúc đầu bài thơ có tựa đề “Chiều thu trên sông” và được phác thảo dưới dạng thơ lục bát sau 17 lần trăn trở, lao động nghệ thuật miệt mài “Tràng giang mới có nhan đề và hình thức như hôm nay. Nó được in trong tập “Lửa thiêng” năm 1940 và trở thành thi phẩm xuất sắc của Thơ mới.
Không phải ngẫu nhiên Huy Cận đặt tên cho bài thơ là “Tràng giang” mà đây vốn là từ Hán Việt được biến âm từ hai chữ “Trường giang” (sông dài), Huy Cận không có ý miêu tả một con sông với chiều dài theo dòng thuỷ triều mà muốn gợi lên một dòng sông mênh mang, vô tận, một dòng sông mang ý vị cổ kính như từ thời tiền sử chảy về – con sông của lịch sử – thi ca – văn hoá. Mặt khác, sự lựa chọn này còn tạo nên sự giao thoa đồng điệu với tâm hồn cô đơn của thi sĩ trước cảnh trời nước mênh mang bởi sự lặp lại của âm “ang” gợi cảm giác dòng sông không chỉ dài mà còn mênh mông bát ngát. Như vậy, nhan đề của thi phẩm đã bộc lộ cảm hứng chủ đạo của tác giả.
Đề từ trong bài thơ này không phải là thứ trang sức nghệ thuật mà nó thường là điểm tựa cho cảm hứng cho ý tưởng của tác giả trong tác phẩm. Bài thơ có lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, câu đề từ như thêm lần nữa vén bức rèm bước qua hành lang mở thông vào cõi vô biên. Với câu đề từ tác giả như muốn mách bảo: con người bâng khuâng, nhung nhớ trước trời rộng, sông dài và cũng là trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài. Cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa giữa hai nghĩa ấy.
Nói như lời của tác giả: “Bài thơ tưởng là cảnh nhưng thực sự là tả tâm hồn”, ở đó tình cảm giao hoà vì một từ dòng sông cụ thể, Huy Cận suy nghĩ về dòng sông “Tràng giang’ của cuộc đời, từ nỗi buồn riêng của mình nhà thơ suy nghĩ về thân phận bơ vơ của kiếp người.